Bón phân cho cây ăn quả (phần 1)
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình 270C với tổng nhiệt độ cả năm khoảng 10.0000C, cùng với các yếu tố khí hậu khác như ánh nắng, gió, ẩm độ không khí, bức xạ mặt trời,... mang tính ổn định nên rất thuận lợi cho sản xuất cây ăn quả nhiệt đới như sầu riêng, chôm chôm, măng cụt, xoài, vú sữa, thanh long, khế, nhãn, bưởi, cam, quýt, chanh, dâu, bòn bon, khóm,... ĐBSCL là vùng đất thấp, hàng năm có mùa nước nổi, bị úng ngập vào mùa mưa, do vậy muốn trồng cây ăn quả phải đào mương lên liếp. Đào mương là để thoát nước trong mùa mưa và dẫn nước tưới vào mùa khô, còn lên liếp là để nâng cao tầng đất mặt và làm dầy tầng canh tác (Hình 1). Khi lên liếp, tầng đất phèn ở sâu được đưa lên làm liếp, cùng với điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều của vùng nhiệt đới và mặt đất liếp cao đã làm cho đất trồng cây ăn quả ở ĐBSCL có những biểu hiện sau:
Hình 1. Liếp và mương vườn cây ăn quả ở ĐBSCL: (a) Liếp trồng cam, chuối và (b) Liếp trồng khóm
- Dưỡng chất bị trực di: Địa hình cao của đất liếp làm cho dưỡng chất theo nước trực di xuống sâu đi ra mương vườn. Do đó, đất vườn lâu năm có pH thấp, các nguyên tố kiềm và kiềm thổ như: Ca, Mg, K ít đi làm giảm độ bão hòa base. Một số dưỡng chất vi lượng như Zn, Mn nằm trong ngưỡng thiếu cung cấp cho cây trồng.
- Chất hữu cơ trong đất giảm: Nhiệt độ, ẩm độ cao và không bị ngập úng là điều kiện tốt cho vi sinh vật phân hủy nhanh chất hữu cơ của đất liếp. Bên cạnh đó nguồn bổ sung chất hữu cơ lại bị hạn chế do xác bả thực vật có trên mặt liếp dễ bị rửa trôi xuống mương vườn. Hai yếu tố nầy đã làm cạn kiệt dần chất hữu cơ, làm nghèo N cho đất liếp.
- Lớp đất mặt bị rửa trôi: Lớp đất mặt liếp là lớp đất tốt của liếp vườn chứa nhiều chất hữu cơ và dưỡng chất, đa số chiều rộng của liếp thường chỉ vào khoảng từ 4-8 m nên khi mưa dầm hoặc tưới nhiều, nước chảy tràn làm trôi lớp đất mặt xuống mương vườn, lâu dần liếp vườn càng ngày càng thấp và đất trở nên kém màu mỡ.
- Đất bị nén dẽ. Lượng mưa nhiều hàng năm kết hợp với lượng nước tưới dư thừa trong mùa nắng đã làm đất liếp mau bị nén dẽ, có độ thấm rút kém nên cản trở nước tưới thấm vào đất, đồng thời làm rễ thiếu không khí và hạn chế sự phát triển.
- Trồng cây thâm canh: Sản xuất cây ăn quả hiện nay ở hầu hết các nhà vườn là sản xuất hàng hóa, sản phẩm có chất lượng và năng suất cao nên lượng dưỡng chất cơ hữu của đất liếp không đủ đáp ứng cho yêu cầu thâm canh.
Do đó, bón phân cho vườn cây ăn quả ở ĐBSCL nhắm vào việc khắc phục những yếu tố bất lợi trên của đất liếp và đáp ứng cho yêu cầu sản xuất trái cây hàng hóa, có chất lượng và năng suất cao.
1. Bón vôi cho cây ăn quả
Đất vườn canh tác ở ĐBSCL phần lớn đều bị chua, can-xi, ma-giê và lân hữu dụng thấp, hàm lượng sắt và nhôm tự do lại cao (Khoi và Tri, 2003; Võ Thị Gương và ctv., 2004) bởi vì hầu hết đất ĐBSCL đều có tầng phèn hay tầng sinh phèn nằm ở dưới sâu, nên khi đào mương lên liếp, nhà vườn đã đưa tầng này lên làm đất canh tác. Ngoài ra, địa hình cao của đất liếp làm cho dưỡng chất theo nước trực di xuống sâu, nhất là các nguyên tố như Ca, Mg, K nên làm giảm độ bảo hòa base, chính vì vậy đất liếp vườn cây ăn quả ở ĐBSCL đều bị chua (Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong, 2011).
Ở đất chua, khoáng sét trong đất bị phá hủy, mất dần cấu trúc, trở nên rời rạc, mềm nhão khi gặp nước và kết dính đóng váng khi khô, đất trở nên bí chặt, kém thông thoáng. Nếu để tình trạng suy thoái kéo dài, đất trở bạc màu, sức sản xuất kém, năng suất và chất lượng của cây trồng giảm. Bón vôi là một trong những biện pháp hữu hiệu ngăn chặn tiến trình suy thoái này, giảm ngộ độc sắt, nhôm và măngan cho cây trồng, phục hồi cấu trúc đất làm đất thông thoáng, thấm nước tốt.
Bón vôi trên đất liếp còn cung cấp can-xi cho cây ăn quả. Can-xi là một dưỡng chất trung lượng nên cây trồng cần nhiều can-xi để làm vững chắc vách tế bào. Khi thiếu can-xi cây yếu ớt dễ đổ ngã, dễ bị sâu bệnh tấn công, trái hay bị nứt; khi thiếu trầm trọng đọt lá non biến dạng, quăn queo rồi chết khô. Ngoài ra, can-xi còn giúp cây trồng giải độc, tăng khả năng chống chịu với điều kiện bất lợi của nắng nóng, mặn và phèn (Nguyễn Bảo Vệ và Nguyễn Huy Tài, 2010). Can-xi được cây hấp thụ qua tiến trình hút nước, đồng thời can-xi không chuyển vị trong cây nên cây cần hấp thu can-xi trong suốt quá trình sinh trưởng. Ngoài tác dụng cải tạo đất và cung cấp can-xi cho cây, vôi còn khử được tác hại của mặn, ức chế sự phát triển của nấm bệnh trong đất và phát huy hiệu lực của phân hữu cơ, phân vô cơ và thuốc diệt cỏ.
Liều lượng vôi bón cho cây ăn quả nhiều ít tùy thuộc vào độ chua của đất và tuổi của liếp, đất chua nhiều và lâu năm bón nhiều hơn. Trung bình hàng năm nên bón 500 kg/ha vôi cho đất liếp trồng nhãn vùng đất phù sa gần sông (Nguyễn Bảo Vệ, 2012) hoặc 2 năm bón một lần cho đất liếp trồng quýt Đường với liều lượng 1 tấn/ha trên vùng đất phèn xa sông (Trần Huỳnh Nguyên Huy, 2011; Châu Kim Thoa, 2012) cho thấy cây phát triển tốt hơn. Vôi được bón vào đầu mùa mưa, bằng cách rải đều trên mặt liếp, xới nhẹ cho vôi trộn đều vào lớp đất mặt. Cần hiểu rõ tác dụng của từng dạng vôi trước khi sử dụng: (a) Bột đá vôi (CaCO3): được làm ra bằng cách nghiền mịn đá vôi; Loại này tác dụng chậm, thường từ 2-6 tháng sau khi bón tùy theo độ mịn của bột đá; (b) Vôi nung (CaO): được tạo ra bằng cách nung đá vôi trong lò nung như làm gạch ở nhiệt độ khoảng 900-1.0000C; Loại này tác dụng mạnh và nhanh nhất nhưng dễ gây bỏng khi gặp nước; (c) Vôi tôi (Ca(OH)2): được tạo ra bằng cách tưới lên vôi nung một lượng nước gần bằng khối lượng của nó, lúc đó vôi tả ra thành bột, sinh nhiệt (khoảng 1500C) và bốc hơi; Dạng vôi nầy tác dụng khá nhanh.
2. Bón phân hữu cơ cho cây ăn quả
Nghiên cứu của Võ Thị Gương và ctv. (2004) trên nhiều vườn trồng cây cam quýt có tuổi liếp khác nhau cho thấy các liếp vườn trên 20 năm tuổi có pH đất thấp, hàm lượng chất hữu cơ rất thấp, N tổng số nghèo, N hữu cơ dễ phân hủy, N hữu dụng, cation trao đổi như Mg, Ca và độ bão hòa base đều rất thấp so với các liếp vườn 7 năm tuổi. Mật số nấm và vi khuẩn giảm thấp trong các liếp vườn 20 năm tuổi cũng cho thấy hàm lượng chất hữu cơ trong đất bị suy giảm. Sự nghèo kiệt chất hữu cơ trong đất sẽ làm cho sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng bị giới hạn, điều này dẫn đến năng suất kém.
Chất mùn hữu cơ trong đất ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và năng suất của cây trồng thông qua các đặc tính lý, hóa và sinh của đất như: (a) Cung cấp đạm, lân, lưu huỳnh và các vi lượng một cách từ từ cho cây; (b) Tích trữ dưỡng chất từ phân hóa học. Vai trò này rất quan trọng, giúp hạn chế việc mất phân sau khi bón vì nếu không chúng bị bốc hơi hoặc rửa trôi. Những chất dinh dưỡng được giữ lại sau đó được phóng thích cho cây hấp thụ khi cần thiết; (c) Cải thiện cấu trúc của đất, làm đất có nhiều lỗ rỗng hơn vì thế đất trở nên thông thoáng, giúp sự di chuyển của nước trong đất dễ dàng, giữ được nhiều nước hơn; (d) Làm tăng mật độ vi sinh vật trong đất, bao gồm cả vi sinh vật có lợi. Ngoài ra, mùn còn có vai trò kích thích cho cây trồng phát triển. Đặc tính này là do sự hiện diện của những chất có chức năng như chất điều hòa sinh trưởng thực vật có trong mùn hữu cơ, có hoạt tính tương tự như IAA, gibberillin, cytokinin, hoặc là những chất ngăn cản sự phân hủy auxin.
ĐBSCL có nhiều nguồn cung cấp phân hữu cơ mà bà con nông dân có thể sử dụng dễ dàng như: rơm rạ (trên 25 triệu tấn/năm), bã bùn và bã mía (trên 120 ngàn tấn bã bùn và trên 1,2 triệu tấn bã mía/năm), phân chuồng,... Phân hữu cơ được bón vào đầu mùa nắng để tránh sự cạnh tranh oxy giữa vi sinh vật phân hủy hữu cơ và rễ cây ăn quả. Liều lượng phân hữu cơ bón cho cây ăn quả tùy thuộc vào loại phân, loại cây và đặc tính của đất, thông thường nên bón từ 10-20 tấn. Trước khi bón, dùng cuốc răng xới nhẹ mặt liếp để giữ phân hữu cơ (nếu đất liếp không có cỏ). Nên bón phân hữu cơ bán phân hủy có tưới thêm nấm Trichoderma để ức chế sự phát triển của nấm bệnh trong đất. Hồ Văn Thiệt (2006) nhận thấy bón phân hữu cơ có tác dụng tích cực về mặt sinh trưởng của cây trồng, tỷ lệ phát triển của rễ rất nhanh, rõ nhất là ở vườn chôm chôm (tỉnh Bến Tre) khi bón phân hữu cơ cần bổ sung nấm Trichoderma. Ngoài ra, việc bón phân hữu cơ có bổ sung nấm Trichoderma giúp vườn sầu riêng giảm tỷ lệ bệnh Phythopthora rất tốt, khác biệt ý nghĩa so với đối chứng, năng suất quả sầu riêng gia tăng và chất lượng quả được cải thiện. Kết quả thí nghiệm của Lâm Phúc Hải (2012) trên quýt Đường ở tỉnh Hậu Giang cho thấy nghiệm thức có bón bả bùn+bả mía (tỷ lệ 3:1) kết hợp với nấm Trichoderma đã mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với đối chứng không bón. Mặc dù ở nghiệm thức đối chứng không phải tốn chi phí mua bã bùn, bã mía, nấm Trichoderma, công vận chuyển và công bón nhưng có lợi nhuận thấp hơn nghiệm thức có bón 30 tấn/ha bã bùn+bã mía là 67.180 đồng/cây. Thí nghiệm này được tiếp tục theo dõi qua năm thứ hai để đánh giá ảnh hưởng lưu tồn của bã bùn+bã mía, và kết quả cho thấy bã bùn+bã mía vẫn còn tác dụng tốt trên cây quýt Đường đến năm thứ hai (Đào Thị Hương Giang, 2012).
- Sử dụng phân bón và chất dưỡng trái cho cây hồ tiêu giai đoạn nuôi trái
- Hướng dẫn chi tiết cách ủ phân chuồng bằng humic hiệu quả
- Bí quyết giữ hoa không rụng trong điều kiện nắng nóng
- Hướng dẫn xử lý tuyến trùng trên cây ổi bằng phương pháp sinh học
- Kỹ thuật trồng cây hoa sắc pháo nở đúng dịp tết
- Kỹ thuật chăm sóc cây sầu riêng ra hoa đậu trái đạt hiệu quả cao