Biện pháp phòng trừ bệnh vàng lùn hại lúa

Cây trồng liên quan: Cây lúa
Bệnh hại liên quan: Vàng lùn, virus lúa cỏ

Trên báo SGGP ra ngày thứ 5 (16/2/2006), trong bài "Rầy nâu bột phát ở ĐBSCL" (trang 9) có đoạn viết: "...nếu không, vụ hè thu tới sẽ đối đầu với bệnh vàng lùn do virus..." đây là lần đầu chúng tôi được nghe nói tới căn bệnh này. Xin cho biết đây là bệnh gì? Có cách nào điều trị chúng?

Huỳnh Văn Một và một vài bà con ở Thoại Sơn (An Giang)

* Trả lời: So với những đối tượng sâu bệnh hại thuộc hàng "lão làng" trên cây lúa ở Việt Nam, thì bệnh vàng lùn chỉ được xếp vào hàng "em út, con cháu" vì chúng mới được phát hiện trên cây lúa ở nước ta khoảng trên chục năm nay. Hồi đó do chưa rõ bệnh gì nên khi phát hiện một số cán bộ kỹ thuật ở ĐBSCL tạm gọi nó là "bệnh vàng lụn". Do bệnh chỉ xuất hiện rất ít và gây hại có tính chất cục bộ, diện hẹp, không đáng kể nên ít được quan tâm. Sau đó các nhà khoa học thuộc trường Đại học Cần Thơ đã bố trí nhiều thí nghiệm khoa học để nghiên cứu và đi đến xác định "Bệnh vàng lụn" này chính là "Bệnh lúa cỏ dòng 2" (Rice grassy stunt strain 2 disease), mà một số nước trong khu vực Đông Nam Á đã phát hiện trước đó vài năm. Hiện nay các nhà chuyên môn ở nước ta gọi là "Bệnh vàng lùn cây lúa".

Vài năm gần đây, nhất là vụ đông xuân năm 1999-2000 bệnh đã xuất hiện ở nhiều tỉnh thuộc ĐBSCL, diện tích nhiễm bệnh đã có lúc lên đến hơn 10.000ha. Vào thời điểm đó ở TP. HCM đã có 242 ha lúa mùa bị bệnh không trỗ được.

Như các bạn đã biết vụ lúa đông xuân 2005-2006 vừa qua rầy nâu đã xuất hiện và gây hại nặng ở nhiều tỉnh thuộc ĐBSCL. Theo thống kê của Trung tâm BVTV phía nam thì đến đầu vụ hè-thu năm 2006 (24/3/2006) trong tổng số khoảng gần 200.000 ha lúa hè thu sớm đang ở thời kỳ mạ đến đẻ nhánh của các tỉnh phía Nam đã có tới gần 7.000 ha bị nhiễm rầy nâu. Đáng chú ý là trên trà lúa này cùng với bệnh lùn xoắn lá thì bệnh vàng lùn cũng đã xuất hiện rải rác trên khoảng 460 ha thuộc một số nơi của Tiền Giang, Đồng Tháp, Long An. Còn theo bà Lê Thị Thủy, phó chi cục trưởng chi cục BVTV tỉnh Đồng Tháp (ngày 30/6/06) thì ở tỉnh này đã có khoảng 400 ha bị nhiễm, tỷ lệ bệnh có chỗ lên đến 80%.

Sau đó bệnh đã lan rộng thành dịch gây hại hàng chục ngàn ha ở các tỉnh ĐBSCL, các tỉnh miền Đông Nam bộ và một số tỉnh Tây nguyên. Ngày 19 tháng 10 năm 2006, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT đã có quyết định công bố dịch.

Để có thể nhận diện, chúng tôi xin cung cấp cho các bạn một vài triệu chứng chính của bệnh

Bệnh vàng lùn hại lúa

Bệnh vàng lùn hại lúa

-  Trên ruộng: bệnh thường xuất hiện riêng lẻ ở từng bụi lúa. Trong một bụi lúa mắc bệnh thường cũng chỉ có một vài tép lúa (dảnh lúa) bị hại, còn các tép khác vẫn phát triển bình thường. Tuy nhiên cũng có trường hợp tất cả các tép lúa trong một bụi đều bị nhiễm bệnh, thậm chí bị chết rụi đi.

-  Trên tép lúa bị bệnh: lá lúa từ màu xanh chuyển dần sang màu xanh nhạt rồi vàng nhạt, vàng cam và sau này là vàng chết khô. Lá dưới gốc bị vàng trước rồi lan dần lên các lá phía trên.

-  Trên lá bệnh: màu vàng bắt đầu từ chóp lá lan dần xuống phía dưới. Phần tiếp giáp giữa màu vàng và màu xanh lục của lá không có ranh giới rõ rệt. Trong khi phiến lá bị vàng thì gân lá vẫn còn xanh. Khi phần màu vàng lan xuống đến gần bẹ thì chóp lá bắt đầu khô và cuốn lại, sau đó cháy khô cả lá, nếu bệnh lan đến lá trên cùng thì cả tép lúa bị chết khô.

Khi bệnh xuất hiện thì tép lúa bị bệnh không tiếp tục phát triển chiều cao nữa, vì thế tép lúa bị lùn đi so với những tép không bị bệnh ở xung quanh. Mức độ lùn nhiều hay ít còn tùy thuộc vào thời gian xuất hiện của bệnh sớm hay trễ. Nếu bệnh xuất hiện sớm từ khi cây lúa còn nhỏ thì cây lúa sẽ bị lùn nhiều, chậm phát triển và chết dần, nếu bệnh xuất hiện trễ khi cây lúa đã qua giai đoạn tăng trưởng thì cây lúa bị lùn ít hoặc không bị lùn, sau này cây lúa có thể bị trỗ nghẹn và lép nhiều.

Cũng theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc trường Đại học Cần Thơ thì: bệnh vàng lùn là một bệnh do siêu vi trùng (virus) gây ra. Bệnh này được lan truyền thông qua tuyến nước bọt của con rầy nâu (Nilaparvata lugens) bằng cách rầy nâu chích hút dịch của cây lúa đã bị bệnh, virus trong cây bệnh sẽ được lưu giữ trong tuyến nước bọtcủa rầy, đến khi rầy chích hút cây lúa khỏe (chưa bị bệnh) chúng sẽ truyền virus cho cây khỏe làm cho cây này bị nhiễm bệnh (giống như cách truyền bệnh sốt rét ở người của con muỗi Anopheles cái). Bệnh không lan truyền qua đất, nước, hạt giống và không khí.

Cũng giống như bệnh lùn xoắn lá do đây là một bệnh virus nên chưa có thuốc để chữa trị. Như đã nói ở phần trên, bệnh vàng lùn do môi giới truyền bệnh là con rầy nâu, vì thế để hạn chế tác hại của các bạn phải áp dụng kết hợp nhiều biện pháp để làm giảm mật số rầy nâu và làm giảm nguồn bệnh trên đồng ruộng. Cụ thể như sau:

-  Không trồng lúa liên tục trên đồng ruộng, đảm bảo thời gian cách ly (không có lúa trên đồng ruộng) ít nhất từ 20-30 ngày, không để vụ lúa chét. Thời vụ trong cùng một vùng phải tập trung, không được gieo sạ kéo dài.

-  Sau khi thu hoạch lúa cần cày bừa, trục gốc rạ kịp thời để diệt lúa chét.

-  Sử dụng giống lúa kháng rầy nâu, lúa giống có chất lượng tốt, không lấy lúa thịt để làm giống, nếu có điều kiện nên xử lý hạt giống trước khi gieo sạ.

-  Không gieo sạ quá dầy trên 120kg/ha.

-  Gieo sạ lúa vào thời gian có thể né rầy, thường mỗi tháng có một đợt rầy nâu trưởng thành vào đèn rộ kéo dài 5-7 ngày, để né rầy các bạn nên gieo sạ ngay sau đỉnh cao rầy vào đèn. Làm được như vậy thì khi lúa non sẽ tránh được rầy trưởng thành truyền bệnh.

-  Để bảo vệ cây lúa non, sau khi sạ nên cho nước vào ruộng và duy trì mực nước thích hợp để hạn chế rầy chích hút thân cây lúa.

-  Không bón thừa phân đạm (ure), tăng trường thêm phân lân và kali để nâng cao sức chống chịu đối với bệnh.

-  Thường xuyên thăm đồng để phát hiện sớm sự xuất hiện của rầy nâu trên cây lúa. Khi phát hiện có rầy thì phun xịt thuốc BVTV để diệt rầy. Cụ thể như sau: giai đoạn lúa từ lúc xuống giống cho đến 20 ngày tuổi nếu thấy rầy nâu xuất hiện thì phun thuốc. Giai đoạn từ 20 ngày tuổi trở đi, nếu mật số rầy từ 3 con/tép trở đi thì phun xịt thuốc. Lưu ý khi sử dụng thuốc phải sử dụng theo nguyên tắc 4 đúng như đã được các cơ quan chuyên môn hướng dẫn.

-  Ở giai đoạn lúa còn non (0-40 ngày sau sạ) nếu ruộng lúa bị bệnh gây hại nặng (trên 10% số khóm bị bệnh) thì phải tiêu hủy ngay bằng cách cày trục cả ruộng để diệt mầm bệnh, trước khi cày vùi phải phun thuốc trừ rầy nâu để tránh rầy nâu phát tán truyền bệnh cho ruộng khác.

Nếu ruộng bị bệnh nhẹ (dưới 10% số khóm bị bệnh) phải nhổ bỏ kịp thời những cây bị bệnh vùi xuống bùn hoặc đưa ra khỏi ruộng tiêu hủy, không bỏ tràn lan trên bờ ruộng.

Nguồn: Hỏi đáp về phòng từ dịch hại cây lúa (Nguyễn Danh Vàn)
Bài liên quan
DMCA.com Protection Status