Giới thiệu, phân loại và chọn tạo giống địa lan

Cây trồng liên quan: Hoa Lan

1. Giới thiệu cây hoa địa lan

Hoa địa lan Cymbidium orchid

Địa lan Cymbidium, là loài lan nằm trong lớp thực vật đơn tử diệp, chủng loại đa dạng, được người Trung Quốc trồng từ lâu đời và hiện nay được nuôi trồng ở nhiều nơi trên thế giới. Có 2 loại: Lan mọc trong đất và Lan phụ sinh. Do chịu ảnh hưởng của văn hóa truyền thống, người Trung Quốc thường thích Lan địa sinh với hương thanh, sắc nhạt như lan xuân, lan huệ, kiến lan, hàn lan, xuân kiến, lan cảnh liên... Nhưng người phương tây lại thích lan phụ sinh hoa to cứng màu sắc rực rỡ như Lan đầu hổ, Bích ngọc lan, Lan mỹ hoa, Hoàng đơn lan, Đại tuyết lan, Hang trụ lan.

Địa lan được mệnh danh là nữ hoàng của các loài lan nhờ chúng có những điểm nổi bật cả về giá trị khoa học lẫn giá trị mỹ thuật. Vẻ tao nhã, hài hòa của chúng từ lâu đã hiện diện trong văn học, nghệ thuật và gắn liền với đời sống văn hóa của người Á Đông.

Đầu thế kỷ 14, những bức tranh thủy mặc vẽ hoa địa lan đã ra đời ở Trung Hoa. Có lẽ sau đó hình ảnh hoa địa lan trên tranh mộc dân gian Việt Nam về hoa cảnh 4 mùa (xuân lan, thu cúc) mới phổ biến. Đến nay những nét vẽ cổ xưa đó còn thể hiện trên tranh sơn mài truyền thống của ta.

Địa lan có phạm vi sử dụng rộng rãi, giá trị cảnh quan cao, có thể trồng nhiều kích cỡ bồn to, nhỏ khác nhau. Bồn hoa thường được đặt ở những nơi đông người, có thể tạo thành cụm, đặt thưa hoặc riêng rẽ, cũng có thể đặt cùng với các chậu cảnh khác kiến tạo thành nhiều tầng hoa, tạo nên sự giàu sang đẹp đẽ. Địa lan là sự lựa chọn lý tưởng của khách sạn, nhà hàng, thương trường, sân bay, câu lạc bộ và phòng khách gia đình. Tại gia đình, lan có thể được đặt ở góc nhà để tạo nên sự hấp dẫn kỳ lạ tăng vẻ đẹp cảnh quan. Trồng trong giỏ hoặc cả cây thường thấy trong công viên, vườn thực vật, nơi du lịch, an dưỡng cũng tạo được cảnh quan đẹp đẽ. Nhiều nơi ở nước ngoài địa lan còn trồng để xếp thành nhiều tầng. Giỏ hoa hoặc cắm hoa nghệ thuật địa lan cắt cành thường có giá trị nghệ thuật cao, được nhiều người ca ngợi.

Hiện nay địa lan đã là sự lựa chọn của nhiều người chơi hoa, do vậy lượng hoa địa lan tiêu thụ tăng lên rất nhanh. Tại Trung Quốc, năm 1997 sản xuất được khoảng 50.000 chậu, đến 2002 đạt đến trên 1.200.000 chậu. Năm 1997 cho tổng thu nhập chỉ có 20 triệu Nhân dân tệ, năm 2002 đạt gần 200 triệu Nhân dân tệ, cho hiệu quả kinh tế cao.

2. Phân loại hoa địa lan

Bản mô tả Cymbidium xưa nhất đã tìm thấy có lẽ mô tả loài Mạc lan (Cym Ensifolium) trong sách ghi chép về đặc điểm thực vật học của Trung Hoa khoảng cuối thế kỷ thứ 3 sau công nguyên.

Trong hệ thống phân loại thực vật của thế giới ngày nay, người ta đã xếp riêng Cymbidium vào một chi, chi này đã được nhà thực vật học người Thụy Điển Otto Swartz mô tả năm 1799. Trong khóa phân loại của Lindley - Bentham - Brieger năm 1983, chi Cymbidium thuộc tông phụ Cymbidinae, tông Dendreae, phân họ Orchidoideae.

Theo tài liệu về thực vật ở Đông Dương, từ năm 1932, Henri Lecompte cho rằng chi này có 120 loài. Gần đây, năm 1978 Jean Carmard sắp xếp lại và xác định có khoảng 60 loài. Những nhà phân loại học Việt Nam như Phạm Hoàng Hộ, Võ Văn Chi... đã giới thiệu ở nước ta có khoảng 12 loài. Các loài thuộc chi Cymbidium phân bố chủ yếu ở châu Á, từ dãy Hymalaya đến Nam Trung Quốc (Vân Nam) bao gồm các nước Đông Dương, Miến Điện, Thái Lan... và một vài loài phân bố ở các châu lục khác.

Phần lớn các loài trong chi này sống ở các vùng rừng núi khá cao, khô và lạnh, một vài loài khác chịu được điều kiện nóng ẩm của rừng nhiệt đới.

3. Công tác chọn tạo giống địa lan

Hiện nay số lượng giống lai tự nhiên địa lan đã được thu thập rất phong phú. Con lai tự nhiên có thể là kết quả của 2 loài giao phấn với nhau hoặc của các dòng trong cùng một loài giao phấn nhờ côn trùng. Điều kiện để một phép lai có thể xảy ra trong tự nhiên là 2 cá thể phải giống nhau vê mùa hoa, cùng khu phân bố và cùng kích thước hoa. Điển hình nhất là cây lai Hồng Hoàng, con lai tự nhiên giữa cây Hồng lan (Cym.insigne) và cây Hoàng lan (Cym. Giganteum). Bản thân nhóm Hồng Hoàng có rất nhiều dạng khác nhau về màu sắc cánh hoa và sắc tố đỏ trên cánh môi. Tuy nhiên, phải nhờ đến bàn tay con người, những phép lai giữa các loài rất cách biệt nhau mới có thể thực hiện. Việc tạo giống Cymbidium phát triển theo tiến trình thu thập giống hoang dại, nhờ có sự hỗ trợ của những tiến bộ sinh học, đã được những kết quả không ngờ.

Khoảng đầu thế kỷ này, một số lan rừng đã được thu thập từ các vùng rừng nhiệt đới đưa về trồng ở châu Âu. Từ những giống hoang dại đó, những phép lai đã được thực hiện. mục tiêu của những phép lai này là tạo được những giống có đặc tính kinh tế và giá trị thẩm mỹ cao như hoa nhiều, lớn, bền, màu sắc sặc sỡ. đó cũng chính là lý do tại sao Cymbidium không phải là cây nguyên bản ở châu Âu nhưng các giống lai được nuôi trồng để cắt cành ở đây lại có số lượng rất lớn so với các châu lục khác.

Cym.eburneo lowianum

Cây Cymbidium lai đầu tiên xuất hiện năm 1889 là cây Cym.eburneo lowianum (Cym.eburneum x Cym.lowianum). Trong 20 năm tiếp theo, chỉ xuất hiện thêm 14 con lai nữa nhưng chúng không có giá trị cao lắm. Trong những năm đầu của thế kỷ 20, người ta đã tìm thấy ở Miến Điện và Đông Dương nhiều loài giá trị, nhất là Cym.parishii, Cym.insigne, Cym.erythrostylum (Bạch Hồng) có màu sắc từ trắng đến hồng, chúng đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các con lai đẹp sau này.

Cym.hookerianum

Cym.hookerianum

Cym.hookerianum và Cym.lowianum đã được dùng để tạo ra những giống hoa màu xanh. Cym.eburneum (Bạch lan) và Cym.insigne (Hồng lan) đã cho ra các giống màu trắng và màu hồng. Cym.traceyanum cho ra các giống màu vàng. Cym.ansonii cho ra những giống màu đỏ và màu hồng. Cym.parishii được dùng để tạo ra những giống có cánh môi đỏ thắm như Cymbidium miretta.

Cymbidium Ruby Valley

Cymbidium Ruby Valley

Những công trình lai tạo, chọn giống Cymbidium vào đầu thế kỷ này đáng kể nhất là của H. G. Alexander, đã cho ra đời cây lai Cym. Alexanderi Westonbirt (Cym.eburneolowianum x Cym.insigne). Cây này cho đến nay vẫn giữ một vị trí quan trọng trong việc tạo ra các giống mới màu trắng, hồng, vàng, xanh, nhất là những giống ra hoa vào mùa thu và mùa đông. Cùng thời gian này, còn có cây lai Cym.pauwelsii (Cym.insigne x Cym.lowianum), là cây đầu dòng để tạo ra những giống có phát hoa lớn và sức phát triển mạnh như Cym.babylon (Cym.olympus x Cym.pauwelsii). Đến lượt mình, Cym.babylon lại là cây đầu dòng thông dụng để tạo ra những giống mới có màu sắc rực rỡ.

Những năm gần đây có khuynh hướng tạo ra những giống Cymbidium có màu sắc tinh khiết, không có sắc tố đỏ cả trên cánh môi. Do đó, sẽ có những giống chỉ có màu vàng, xanh hay trắng. Phương pháp để đạt kết quả này là lai luân hồi nhiều lần với Cym.lowianum var. Concolor (Thanh ngọc). một hướng lai tạo khác không kém lý thú là tạo ra những giống với nhiều màu sắc rực rỡ phối hợp với nhau: màu 2 cánh hoa và cánh môi khác với màu của 3 lá đài, hoặc cánh hoa có nhiều màu tạo thành các đốm khảm. Về hình dạng hoa thì ngày càng có những giống lai mới có cánh hoa và lá đài tròn, hoa kín và tròn. Hoa nhiều trên một cành và độ bền của hoa cắt cành cũng là những đặc điểm được quan tâm khi chọn tạo giống.

Một nhóm Cymbidium khác có kích thước thân, lá, hoa nhỏ hơn, gọi chung là Cymbidium miniature, cũng được lai tạo ra và chiếm một vị trí đáng kể cạnh nhóm hoa lớn, do chúng thích hợp với điều kiện nhà ở ngày càng chật hẹp hiện nay. Những cây đầu dòng để tạo giống trong nhóm này có thể kể Cym.devonianum (Gấm ngũ hổ); Cym.ensifolium (Mặc lan); Cym.pumilum và Cym.tigrinum. Cym.devonianum cho ra những giống có cành hoa buông thõng, màu xanh, vàng và nâu, cánh môi có bệt đỏ đậm; Cym.ensifolium được khai thác ở 2 đặc tính di truyền là mùa hoa (cuối hè và thu) và hương thơm. Cym. Tigrinum cho ra những con lai nở hoa mùa xuân, cây thấp lùn, lá ngắn, giả hành nhỏ, hoa màu xanh đến vàng. Nhưng đáng kể nhất vẫn là Cym.pumilum đã cho ra nhiều giống miniature màu sắc phong phú. Ưu điểm của nhóm hoa nhỏ này là yêu cầu không khắt khe lắm về nhiệt độ thấp để phân hóa hoa nên có thể nuôi trồng rộng rãi hơn ở nước ta.

Giữa những nhóm hoa lớn và hoa nhỏ cũng đã có những phép lai, tạo ra những giống Cymbidium kết hợp được đặc điểm của cả 2 nhóm: hoa lớn trung bình, số lượng hoa trên một cánh nhiều, dễ trồng trọt và năng suất hoa cao.

Việc lai tạo giống không ngừng lại ở việc thụ phấn, gieo hạt đơn giản mà còn dùng đến những kỹ thuật sinh học hiện đại để tạo ra nhiều giống đa bội... Cymbidium cũng là chi đầu tiên của hoa lan được áp dụng thành công phương pháp cấy đỉnh sinh trưởng và nhân giống vô tính hàng loạt trong ống nghiệm để có số lượng cây giống lớn, đồng nhất và sạch bệnh trong một thời gian tương đối ngắn.

Do đó, muốn phát triển việc nuôi trồng Cymbidium ở quy mô lớn hoặc để tạo ra những giống mới, cần thiết phải có một phòng thí nghiệm với đầy đủ hóa chất, thiết bị nhân cấy cây trong ống nghiệm. Đây là một bộ phận không thể thiếu được của bất kỳ cơ sở trồng lan nào trên thế giới.

Ở Việt Nam có khoảng 12 loài địa lan hoang dại, hiện nay đã và đang được nuôi trồng tại Đà Lạt. Qua việc khảo sát trong tự nhiên, các loài này đều có khu phân những quy luật chi phối đặc trưng, có số lượng cá thể khá lớn. Từng loài có các đặc điểm khác biệt so với loài khác. Một số loài có giá trị nghệ thuật và giá trị kinh tế như: Lô hội, Thanh lan, Xích ngọc, Gấm ngũ hổ, Bạch lan, Mạc lan, Hoàng lan, Hồng lan, Tử cán...

Các giống hoa địa lan

Ngoài ra còn có một số biến chủng sau:

- Trường kiếm, Đoản kiếm, Đoản kiếm lá nhọn, Bích ngọc...

- Bạch lạp, Bạch ngọc, Bạch gấm...

- Thanh ngọc, Thanh hồng, Hồng ngọc...

- Đại kiều, Tiểu kiều, Hắc lan, Bút tiên, Hồng tuyến...

- Tím luật, Tím Hùng Vương...

- Hoàng lan như ngọc, Hoàng lan xanh, Hoàng lan vàng...

- Tử vân

- Như ngọc.

Nguồn: Giáo trình Hoa Lan - Đại học Thái Nguyên (Trường Đại học Nông Lâm)
Bài liên quan
DMCA.com Protection Status