Lở cổ rễ, thối gốc, héo rũ, héo khô, héo cây con
Triệu chứng bệnh lở cổ rễ (thối gốc, héo rũ, héo khô, héo cây con):
Bệnh có thể tấn công suốt giai đoạn sinh trưởng của cây, thường gây thiệt hại nặng cho cây con, thường xảy ra trong khu đất cũ đã phát bệnh và ẩm độ cao. Nhiệt độ thích hợp để nấm phát triển là 25-30oC.
Cây con: cổ thân bị úng và teo tóp lại, cây bị ngã ngang nhưng lá vẫn còn xanh tươi, sau đó mới héo lại. Bệnh thường tấn công mạnh vào 5-10 ngày sau khi gieo.
Cây lớn: bệnh xâm nhiễm ở thân, nhất là ở phần gốc thân, làm cho mô vỏ bị thối nâu hoặc nâu đen, viền vùng thối không đều đặn và có màu nâu đỏ, phần bệnh hơi lõm vào, sau đó thân bị nứt ra, lá héo khô rồi rụng dần. Cây bị nhiễm bệnh lá rũ có thể bị gảy, cây chậm phát triển và thường bị chết.
Bệnh được nhận diện dễ dàng nhờ vào dấu hiệu của bệnh, đó là các sợi nấm, hạch nấm của nấm gây bệnh, chúng phát triển ngay trên vết bệnh ở gốc thân, phát triển lan lên thân và vùng đất quanh gốc cây. Rễ bị thối và thường có màu nâu đỏ.
Tuy nhiên, ở ngoài đồng bệnh thường dễ nhầm lẫn với thiệt hại do ruồi đục thân đậu nành (Melanagromyza sojae), có thể phân biệt nhờ vào các dấu hiệu bệnh nêu trên. Bệnh cũng thường xuất hiện cùng lúc với thiệt hại do ruồi đục thân do điều kiện thời tiết nóng và ẩm đều phù hợp cho hai lọai dịch hại này.
Tác nhân gây bệnh héo cây con, héo khô:
Bệnh do nấm Rhizoctonia solani Kuhn, giai đọan sinh sản hữu tính là Thanatephorus cucumeris thuộc lớp nấm Đãm. Sợi nấm màu trắng, hạch nấm màu trắng lúc mới thành lập, sau đó có màu nâu vàng hoặc nâu đen, hạch nấm hình cầu có bề mặt trơn láng, kích thước 1-2 mm. Đây là hai dạng lưu tồn và lây lan chủ yếu của mầm bệnh.
Một số bệnh hoặc tên gọi khác của bệnh do nấm Rhizoctonia solani gây ra:
Bệnh héo xanh và héo vàng trên khoai tây, bệnh chết cây con trên ớt, bệnh khô vằn trên hồ tiêu - lúa - ngô, bệnh rụng lóng - chết dây hồ tiêu, bệnh héo cây con, héo khô trên đậu tương, bệnh lở cổ rễ...
* Bệnh lở cổ rễ, héo cây con trên cây lạc:
Cây lạc bị bệnh lở cổ rễ, héo cây con Rhizoctonia solani
Cây lạc bị nhiễm bệnh: cổ rễ gần mặt đất có vết thâm, sau đó cổ rễ bị thối đen, teo lại, cây bị đổ ngã và héo chết. Cây lớn cũng có thể bị nấm xâm nhập vào rễ chính, sau đó lan sang các rễ phụ làm cả bộ rễ bị thối, cây sinh trưởng kém dần rồi héo chết.
* Bệnh lở cổ rễ, héo cây con, hỏng củ hại trên cây khoai tây:
Cây khoai tây và củ khoai tây bị bệnh lở cổ rễ, héo cây con Rhizoctonia solani
(A) Bệnh lở cổ rễ trên cây khoai tây; (B) Cây bệnh củ cũng bị hư.
Bệnh phá hại ở rễ, mầm, củ và thân. Khi nấm xâm nhập vào củ thì làm cho củ không nảy mầm được, hoặc cây con bị héo rũ ngay. Rễ và thân giáp mặt đất có nhiều u sần sùi, vết bệnh có màu nâu bao quanh, sau đó bị thối. Những cây bị bệnh thường ra củ khí sinh ở ngay nách lá hoặc không có củ, sau ít lâu cây sẽ chết.
Vết bệnh trên củ có màu nâu sẫm, cứng, có kích thước và hình dạng khác nhau. Khi nấm phát triển mạnh có thể biến thành hạch nấm có màu nâu đậm và rất dễ rụng. Nếu trời ẩm ướt thì trên vết bệnh có lớp nấm trắng ngà.
Nấm xâm nhập vào trong củ từ khi ngoài đồng hoặc trong thời gian bảo quản. Sợi nấm làm tắc bó mạch và làm cho cây bị héo rũ làm củ khoai bị thối.
* Bệnh lở cổ rễ, héo cây trên cây cà chua:
Cây cà chua bị bệnh lở cổ rễ, héo cây con Rhizoctonia solani
Vết bệnh thường gây hại ở phần gốc ngay trên mặt đất, nấm tấn công vào gốc làm gốc cây bị thối nhũn và cây bị gãy gục, phần cây bên trên vẫn còn tươi xanh. Sau khi cây gãy gục phần trên mới bị héo đi.
* Bệnh thối gốc, héo cây trên cây họ bầu bí, dưa
Rễ cây bị thối nhũng, cây dễ ngã, lá non vẫn xanh. Nấm chỉ gây hại ở giai đoạn cây con đến khi có 1-2 lá thật, bệnh còn làm thối đít trái. Bệnh phát triển mạnh khi ẩm độ cao, nấm lưu tồn trên thân lúa, rơm rạ, cỏ dại, lục bình, hạch nấm tồn tại trong đất sau mùa gặt lúa.
(A) Cây con bị nấm bệnh tấn công; (B) Bệnh tấn công ở giai đoạn phát triển thân lá; (C); (D); (E) Bệnh gây thối gốc cây; (F) Nấm bệnh hại gốc tạo hạch và tơ nấm.
Nấm xâm nhập vào cổ rễ cây con chỗ giáp mặt đất, cổ rễ bị thối nhũn, cây con dễ ngã gục ngang mặt đất, lá non vẫn xanh. Cây đậu vẫn còn tươi, sau đó cây bị héo chết. Vào những ngày có ẩm độ cao những cây bị gãy gục, xung quanh gốc có tơ nấm màu trắng trên mặt đất.
* Bệnh lở cổ rễ ở cải bắp
Cây bị bệnh sẽ suy yếu, bắp nhỏ, đôi khi héo và chết. Trong điều kiện ẩm ướt, bệnh lây lan sang các lá bên cạnh và gây thối bắp, toàn bộ bắp có thể bị thối khô, bắt đầu từ những lá bao phía ngoài. Trên chỗ thối có các hạch nhỏ màu nâu.
Bệnh lỡ cổ rễ cải bắp; Bệnh có thể gây chết hàng loạt trên ruộng
* Bệnh lở cổ rễ ở cây bông vải
Bệnh xuất hiện gây hại vào thời kỳ cây con, từ khi cây bông vừa nảy mầm đến giai đoạn 3-4 lá thật trong điều kiện nhiệt độ thấp và ẩm độ đất cao.
Triệu chứng là cây héo, ngọn rũ xuống.
Bệnh lở cổ rễ
Cây bông bị bệnh lở cổ rễ
Cây bị bệnh rất dễ nhổ, lúc đầu vết bệnh là những chấm nhỏ màu nâu hay nâu đen, sau kéo dài ra, ăn sâu vào trong, lõm xuống và ăn vòng quanh thân.
Bệnh gây hại từ khi cây bông vừa nảy mầm đến 3-4 lá thật, làm giảm mật độ, tốn công bứng dặm.
* Bệnh hại trên các cây trồng khác như mè (vừng), ớt, đậu... có triệu chứng tương tự
Phòng trị bệnh lở cổ rễ, héo cây con Rhizoctonia bataticola trên cây trồng:
- Biện pháp kỹ thuật, canh tác:
+ Vệ sinh đồng ruộng, thu gom tàn dư cây trồng vụ trước
+ Nhổ bỏ những cây bị bệnh. Đốt để tiêu diệt nguồn nấm bệnh.
+ Cày bừa kỹ, san mặt ruộng cho bằng phẳng để đất thoáng và không đọng nước.
+ Chỉ dùng hạt giống không bị bệnh
+ Luân canh cây trồng với cây khác họ để tiêu diệt nguồn bệnh, có hiệu quả khi luân canh với cây lúa nước.
+ Đối với cây họ bầu bí, dưa không dùng rơm rạ lúa bị bệnh đốm vằn tủ liếp trồng. Đốt rơm rạ trước khi trồng dưa.
+ Không dùng nước tưới từ mương lục bình
+ Chọn đất trồng phải cao ráo, dễ thoát nước; vườn ươm thoát nước tốt không có bóng râm. Đất vườn ươm phải xử lý trước khi gieo như đốt rơm rạ hoặc phủ nilon phơi nắng vài tuần, hoặc xử lý vôi.
+ Sử dụng phân hữu cơ ủ hoai mục, không bón nhiều đạm.
- Biện pháp hóa học:
+ Khi bệnh xuất hiện và phát triển có thể sử dụng các loại thuốc BVTV để phòng trị: Validacin, Bonanza,...
+ Phòng ngừa bằng các loại thuốc đặc hiệu như Amistar 250SC với các hoạt chất Hexaconazole, Difenoconazole…
- Phun thuốc: hoạt chất Azoxystrobin, Validamycin hay hỗn hợp các hoạt chất (Mandipropamid + Chlorothalonil)… phun 7 - 10 ngày/lần.
- Đối với cây bông: Sau khi bông mọc, có thể phun thuốc từ 1 đến 2 lần bằng một trong các loại thuốc sau:
+ Monceren 250 SC, liều lượng 0,3 – 0,4 lít/ha
+ Monceren 70WP liều lượng 0,2kg/ha.
+ Validamicin 50 EC liều lượng 1,0 lítt/ha
Xem thêm: Bệnh cháy nhũn lá trên đậu tương