Tìm hiểu kỹ thuật trồng mai của người xưa

Cây trồng liên quan: Cây hoa mai vàng

Cây mai vàng được trồng ta nước ta từ năm nào, thuộc thế kỷ nào?

Chúng tôi rất tiếc là không có trong tay tài liệu đáng tin cậy nào để giải đáp thỏa đáng được câu hỏi này. Chỉ biết một điều là cây mai vàng được trồng tại nước ta lâu đời rồi, và hàng ngàn đời nay tổ tiên ta đã xem màu vàng tươi tắn của hoa mai tượng trưng cho sự thịnh vượng, hạnh phúc và may mắn nên mới dùng hoa mai vào việc chưng cúng trên bàn thờ tổ tiên trong dịp tết Nguyên đán, trùng hợp với màu hoa mai nở. Cái tục lệ này vẫn còn truyền lại cho đến tận ngày nay.

Hoa mai vàng trong hình ảnh miêu tả Tết cổ truyền xưa

Hoa mai vàng trong hình ảnh miêu tả Tết cổ truyền (Nguồn: Internet)

Chỉ những chi tiết đó thôi cũng đủ cho ta thấy cây mai vàng được ông bà ta trồng từ lâu đời.

Do mai vàng là loài hoa quí, không những quí bởi sắc vàng của hoa rực rỡ, tươi tắn, mà trong Kinh Thi, bộ sách quí của Trung Hoa do đức Khổng Tử san định cũng khen là giống cây có tiết tháo trong sạch, hiên ngang tắm gió gội sương giữa trời băng giá, sánh ngang với tùng, bách. Triết lý của đạo Nho xem mai mang khí phách bất khuất của người anh hùng. Còn trong Lão giáo thì tôn mai lên hàng vũ trụ luận, cho là do khí âm dương phối hợp mà thành...

Cũng như chúng ta ngày nay, người xưa cũng rất say mê trồng mai. Nhưng có nhiều người muốn biết kỹ thuật trồng mai của người xưa có khác xa với cách trồng của người thời nay không? Đó là thắc mắc lý thú, chúng ta cùng tìm hiểu xem sao...

  • Cách trồng mai của người xưa:

Ngày xưa nước ta chuyên về nông nghiệp; tuy đất rộng người thưa, và tuy cây mai được xem là loài cây quí (hoa dùng vào việc thờ cúng) nhưng thực tế nó không phải là giống cây lương thực như lúa, bắp, khoai, đậu nên ông bà chỉ dùng những khoảnh đất đầu thừa cuối thẹo trong vườn để trồng vào đó một số gốc mai vàng để đến tết có hoa chưng cúng khỏi phải đi xin ai. Còn những thửa đất màu mỡ thì họ dùng vào việc trồng lúa, bắp, khoai, đậu để có lương thực mà ăn.

Đó là quan niệm đơn giản nhưng mang tính thực tế, thực dụng của đại đa số người xưa. Họ là những người nghèo, quanh năm đầu tắt mặt tối chân lấm tay bùn làm việc quần quật ở ngoài đồng để kiếm cái ăn. Năm nào thời tiết thuận lợi được mùa thì nhà nhà no ấm. Ngược lại những năm bị mất mùa thì nhà nhà đói kém, tới bữa củ khoai cũng không có... cầm hơi. Vì vậy, lúc nào người ta cũng ưu tiên lo đến cái ăn, cái mặc, hiếm có ai dám tơ tưởng đến thú ăn chơi.

Cây mai vàng được trồng với cách đó thì sự chết sống ra sao đều phó mặc cho trời, ít ai chịu bỏ công sức ra chăm sóc, tưới bón. Chỉ đến ngày rằm tháng Chạp - còn nửa tháng nửa đến tết, người ta mới vội vã ra chỗ trồng mai để làm việc trẩy lá cho cây mai trổ hoa đúng vào dịp tết.

Đến ngày cận tết, người ta lại ra vườn chọn những cành mai sai hoa lớn nụ, cắt về cắm vào lộc bình rồi đặt lên bàn thờ chưng cúng. Còn cây mai nào đẹp đẽ được bứng gốc cho vào chậu đặt cạnh bàn vọng thiên hoặc đem vào phòng khách chưng tết. Sau tết, họ lại đem những cây mai này về nơi cũ trồng lại...

Thế nhưng, bên cạnh đa số người nghèo lại có thiểu số những người dư ăn thừa để, những vị hưu quan, và cả những lão nông không còn sức khỏe để đảm đương công việc đồng áng nặng nhọc, thì họ lại có nhiều thì giờ rảnh rỗi tìm đến thú điền viên là chơi kiểng cổ, để di dưỡng tinh thần.

Chơi kiểng cổ là thú vui tao nhã, lành mạnh hợp với sở thích người già. Nếu trước sân nhà có bày ra năm ba cây kiểng cổ, lại do tay mình uốn sửa nên dáng nên hình thì còn gì thích thú hơn.

Do cây mai có thân gỗ, cành nhánh mềm mại dễ uốn, lại sống lâu năm không thua gì tùng, bách, kim quýt, sơn liễu, cần thăng... nên dưới tài nghệ uốn sửa điêu luyện của người xưa dễ trở thành cây kiểng cổ giá trị.

Ngày xưa, đúng ra là từ sáu bảy thập niên trở về trước, ông cha ta chưa hề biết đến nghệ thuật cắt tỉa, tháp ghép mà chỉ biết việc uốn sửa cây kiểng theo các thế đã định với mục đích là ngầm ký thác tâm tư nguyện vọng sâu xa của mình vào đó.

Việc sửa cành uốn thế cho cây mai tốn rất nhiều công phu khó nhọc, không thể làm nóng vội trong một sáng một chiều mà thành, mà đòi hỏi người trồng phải có đức kiên nhẫn, nay uốn cành này, mai lại sửa cành khác... có khi cây mai đã già mà tác phẩm vẫn chưa hoàn thành!

Thế cây ra sao thì khuôn mẫu đã có sẵn, nhưng giá trị của việc uốn sửa cao thấp, đẹp xấu ra sao là tùy thuộc vào khả năng sáng tạo của mỗi người.

Các thế căn bản của cây kiểng

Được biết, có năm thế căn bản của cây kiểng xưa mà nghệ nhân cây kiểng thường theo đó mà uốn sửa:

- Thế trực: Cây mọc thẳng đứng tượng trưng hình ảnh một người anh hùng, đầu đội trời chân đạp đất, ý chí bất khuất, tự tin, tự lập, không chịu khom lưng luồn cúi nhờ vả một ai.

- Thế cận trực: Cây kiểng có thân thẳng, dáng hơi nghiêng về một phía, nhưng phần ngọn của nó vẫn hướng thẳng lên trời. Hình ảnh này tượng trưng cho người có ý chí kiên cường, dù gặp nghịch cảnh vẫn không chịu khuất phục.

-  Thế hoành: Cây mai kiểng có thân thẳng, dáng bị nghiêng hơn thế cận trực một chút, nhưng phần ngọn của nó thì uốn ngả về phía gốc (hồi đầu). Hình ảnh này tượng trưng người có nhiều nghị lực và dũng cảm, dù cuộc sống bị nhiều phong ba bão táp vùi dập, nhưng vẫn cố gắng vươn lên mà sống.

- Thế ngọa: Ngọa có nghĩa là nằm. Thế cây mai kiểng uốn nằm ngang trên mặt chậu như bị gió to bão lớn xô ngã, nhưng phần đầu ngọn vẫn uốn theo thế hồi đầu (quay về phía gốc). Đây là hình ảnh của người anh hùng mạt vận. Người có thực tài mà tiếc là không gặp vận may, cất đầu lên không nổi nhưng vẫn không chịu đầu hàng số phận, vẫn có ý chí quật khởi.

- Thế huyền nhai: Đây là thế thác đổ. Thân cây mai được uốn cong và ngã xuống theo chiều ngọn thác từ trên cao đổ xuống vực sâu. Phần ngọn cây uốn ngược lên cao. Hình ảnh này nói lên số phận của một người có tài, có chí nhưng cuộc sống lại toàn gặp những chuyện không may, nhưng vẫn cố gắng phấn đấu...

Dựa vào năm thế căn bản trình bày trên, các nghệ nhân hoa kiểng xưa với lòng đam mê cao độ đã có sáng ý tạo ra nhiều thế phụ cũng gây được ấn tượng mạnh cho người thưởng lãm, như:

- Thế Trực quân tử: Dáng cây giống thế Trực: Thân mọc thẳng, các cành uốn vị trí nằm ngang. Cành dưới dài hơn cành trên để tạo tán hình chóp. Cây kiểng mang ý nghĩa người có phẩm hạnh tốt, có ý chí bất khuất, biết sống vì mọi người.

- Thế Nhất trụ kình thiên: Dáng cây giống thế Trực: Cây tạo gốc lớn, thân to, cành to, ngọn thẳng đứng lên trời, bộ rễ mọc khí sinh lan tỏa trên mặt chậu tạo thế vững cho cây. Cây kiểng mang ý nghĩa người có chí khí ngang tàng, chỉ muốn tung hoành dọc ngang trời bể để mưu cầu việc lớn, bất chấp mọi hiểm nguy.

- Thế Bạt phong hồi đầu: Dáng cây giống thế Cận trực: Thân mọc nghiêng về một phía như bị cuồng phong xô nghiêng, ngọn cây trở đầu lại phía gốc (hồi đầu) như cố gắng sức mình chống chọi lại, cố gượng dậy chứ không dễ dàng chịu ngã đổ. Các cành phía gốc cũng trở đầu như ngọn cây tỏ ý không chịu khuất phục. Cây tượng trưng cho người có đức tính tự lập, tự cường, không dễ chịu khuất phục trước mọi nghịch cảnh.

- Thế Quần tụ tam sơn: Ba cây mai được trồng chung một chậu sao cho cây cao lớn đứng giữa, hai cây nhỏ và thấp hơn ở vị trí cặp hai bên, trồng như ba ngọn núi nằm gần nhau. Ngụ ý nói lên cái thế “hợp quần tạo sức mạnh”. Tượng trưng sức mạnh đoàn kết của nhiều người có cùng chung chí hướng và sẵn sàng chung lưng đấu cật với nhau chống lại kẻ thù.

- Thế Mẫu tử: Chọn cây mai có hai thân, một chính một phụ. Thân chính tượng trưng cho người mẹ thì cao to, phía ngọn uốn ngả trùm lên ngọn thân phụ - tượng trưng cho người con như có ý đùm bọc, che chở. Thân phụ nhỏ và thấp, ngọn uốn ngả về phía thân chính có ý làm nũng mong được che chở. Ngụ ý nói lên tình mẹ con (hay tình cha con) thiêng liêng cao cả và bất diệt hợp với đạo lý làm người.

- Thế Nhân lễ nghĩa trí tín: Cây mai kiểng trong chậu chỉ có một thân thì uốn theo thế Trực: Thân to mọc thẳng, chỉ có năm nhánh tạo tán hình chóp, mỗi nhánh tượng trưng cho một đức tính tốt trong đạo làm người. Nếu chọn được cây mai có hai thân một chính, một phụ thì uốn các thân giống như ở thế Mẫu tử. Có điều khác là trên thân lớn chỉ chừa ba cành, còn thân phụ chừa hai cành. Mỗi cành như vậy mang một tên: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Ngụ ý cây kiểng này đề cao năm đức tính tốt (ngũ thường) cũng nằm trong đạo làm người.

- Thế Mai nữ: Cây mai kiểng có thân mềm mại, các cành nhỏ được uốn sửa có nét ẻo lả, thanh tú. Cây mang hình ảnh của người con gái đoan trang, duyên dáng với dáng đứng khép nép, e lệ rụt rè dễ mến của người con gái phương Đông.

Kiểng thế nói chung được trồng trong chậu kiểng cẩn thận và chưng bày theo từng bộ ở nơi đắc địa nhất trước sân nhà gây sự chú ý của mọi người.

Thường một bộ kiểng thế có hai cây, hoặc ba cây, bốn cây, nhưng bộ hai cây được coi là thông dụng nhất.

Một bộ kiểng thế hai cây thì đòi hỏi cả hai cây đều có thế uốn sửa với nhau và đặt đối xứng nhau. Ví dụ bên phải đặt cây thế Mẫu tử (từ thân đến cành nhánh đều uốn sửa giống nhau).

Còn bộ kiểng thế đối xứng nhau không bắt buộc phải uốn sửa giống nha, mà một số phần nào đó của hai cây như thân, cành, ngọn... được uốn sửa đối xứng với nhau.

Ví dụ: Long đi chung với Phụng, Long thăng đi chung với Long giáng, hoặc Tam cương đi chung với Ngũ thường... Từng cặp kiểng thế đó đặt chung với nhau theo bộ vừa đẹp vừa mang ý nghĩa thú vị.

* Việc chăm sóc: Ngày xưa, chỉ những người trồng mai kiểng thế mới bỏ ra nhiều công chăm sóc, tưới bón cho cây kiểng quí của mình. Một là do họ là những người nhàn rỗi, hằng ngày không phải lo đến chuyện “cơm áo gạo tiền”. mai là những cây kiểng quí đã đem lại thú tiêu khiển lành mạnh cho họ. vì vậy, hằng ngày họ mới chịu khó tưới nước bắt sâu...

Ngược lại, cây mai trồng với mục đích chờ đến tết cắt cành lấy hoa chưng cúng thì gần như suốt năm không được người trồng bỏ công chăm sóc tưới bón. Một là đa số họ là những người nghèo, ngày nào cũng phải đầu tắt mặt tối với trăm công ngàn việc nặng nhọc từ sáng tinh mơ đến tối mịt để tìm kiếm cái ăn, cái mặc mà vẫn bị thiếu trước hụt sau! Mai - theo quan niệm của họ - không phải là cây lương thực, nó không phải là thứ hàng hóa có thể mua bán được (như thời nay) nên tuy quí nhưng đành phải bỏ mặc... Nếu tết đến, ra vườn có cây nào sai hoa, nở đúng tết thì cắt lấy cành vào chưng còn cả vườn không có cây nào ra hoa đúng tết thì... chịu khó qua vườn hàng xóm xin đôi cành về chưng cúng cũng được...

Trồng mai không tốn công tưới nước mà bón phân cũng không. Điều này không có nghĩa là người xưa không biết về kỹ thuật trồng mai, mà là do họ quá bận bịu với chuyện cơm áo, ngay việc nuôi con chó giữ nhà, nuôi con gà lấy rứng tới bữa họ cũng cho ăn chút ít cầm chừng. Từ xưa đã có câu tục ngữ: “Cơm đâu cho no bụng chó, lúa đâu cho vừa diều gà”, nên phân chuồng nếu có dư thì họ cũng dành cho việc bón lúa, bón khoai,... lo kiếm cái ăn trước mắt đã!

Nguồn: theo Việt Chương - Phúc Quyên
Bài liên quan
DMCA.com Protection Status