Lựa chọn phương pháp gieo trồng ngô (bắp)

Cây trồng liên quan: Cây ngô (cây bắp)

Ngô được gieo trồng rộng khắp thế giới với sản lượng hàng năm cao hơn bất kỳ cây lương thực nào. Trong khi Hoa Kỳ sản xuất gần một nửa sản lượng chung của thế giới thì các nước sản xuất hàng đầu khác còn có Trung Quốc, Braxin, Argentina, Ấn Độ , Pháp, Indonesia, Nam Phi và Italia. Sản lượng toàn thế giới năm 2003 là trên 600 triệu tấn - hơn cả lúa và lúa mì. Năm 2004, gần 33 triệu ha ngô đã được gieo trồng trên khắp thế giới, với giá trị khoảng trên 23 tỷ USD.

Do ngô chịu lạnh kém nên trong khu vực ôn đới người ta trồng ngô vào mùa xuân. Hệ thống rễ của nó nói chung là nông vì thế ngô phụ thuộc nhiều vào độ ẩm của đất. Là một loại thực vật C4 (thực vật sử dụng cơ chế quang hợp C4), nên ngô là loại cây lương thực tương đối có hiệu quả hơn trong sử dụng nước so với các thực vật C3 như các loại cây lương thực nhỏ, cỏ linh lăng hay đậu tương. Ngô nhạy cảm nhất với khô hạn khi trổ bắp, lúc hoa (râu) ngô đã sẵn sàng cho việc thụ phấn. Tại Hoa Kỳ, vụ thu hoạch bội thu theo truyền th ống được dự đoán là khi ngô "cao ngang đầu gối vào ngày 4 tháng 7", mặc dù các giống lai ghép hiện nay nói chung đều vượt quá tỷ lệ phát triển này. Ngô sử dụng để làm cỏ ủ chua được thu hoạch khi cây còn non và bắp chưa già. Ngô ngọt được thu hoạch khi hạt ở "giai đoạn sữa", sau khi thụ phấn nhưng trước khi hình thành tinh bột, ở Mỹ là vào khoảng cuối mùa hè, đầu đến gi ữa mùa thu. Ngô lấy hạt được để lại trên đồng cho tới cuối thu nhằm làm khô hạt và đôi khi người ta còn để nó qua mùa đông hay đầu mùa xuân. Tầm quan trọng của lượng hơi ẩm vừa đủ trong đất được thể hiện rõ nét tại nhiều khu vực thuộc châu Phi, nơi mà sự khô hạn mang tính chu kỳ luôn gây ra nạn đói do mùa màng thất bát.

Tại Hoa Kỳ, ngô đã từng được thổ dân gieo trồng trên các mô đất, trong một hệ thống phức tạp gọi là “Ba chị em”: Các loài đậu, đỗ sử dụng thân cây ngô để lấy chỗ dựa, còn các loại bí thì có tác dụng che chắn cỏ dại. Phương pháp này đã bị thay thế gieo trồng đơn loài trên các mô đất trong đó mỗi mô đất cách nhau khoảng 60 – 120 cm (2 – 4 fit) được gieo 3 hay 4 hạt giống, một phương pháp hiện nay vẫn còn được những người làm vườn tại gia sử dụng. Các kỹ thuật muộn hơn là ngô ca rô, trong đó các mô đất cách nhau khoảng 1 m (40 inch), cho phép các máy xới chạy trên đồng theo cả hai hướng ngang và dọc. Tại các khu vực đất đai khô cằn hơn thì điều này bị thay thế và hạt được gieo tại đáy các rãnh sâu khoảng 10–12 cm (4–5 inch) để có thể lấy được nhiều nước hơn. Kỹ thuật hiện đại gieo trồng ngô thành các hàng để cho phép việc chăm sóc cây non được thuận tiện hơn, mặc dù kỹ thuật gieo trồng trên các đống đất vẫn còn được sử dụng tại các cánh đồng ngô trong một số khu bảo tồn của thổ dân châu Mỹ. Tại Bắc Mỹ, các cánh đồng được gieo trồng theo phương pháp luân canh cây trồng với các cây trồng có tác dụng cố định đạm, thường là cỏ linh lăng ở khu vực có khí hậu lạnh hơn và đậu tương ở các khu vực có mùa hè dài hơn. Đôi khi, cây trồng thứ ba, lúa mì mùa đông, cũng được thêm vào trong vòng luân canh. Các cánh đồng thông thường được cày xới mỗi năm, mặc dù kiểu canh tác không cày xới ngày càng gia tăng. Nhiều giống ngô được trồng tại Hoa Kỳ và Canada là các giống lai. Trên một nửa diện tích gieo trồng ngô tại Hoa Kỳ là các giống ngô biến đổi gen bằng cách sử dụng công nghệ sinh học để có được các đặc tính tốt như sức kháng chịu sâu bệnh hay sức kháng chịu thuốc diệt cỏ.

Các phương pháp gieo trồng ngô

1. Các phương pháp gieo trồng

- Gieo vãi: Gieo vãi là phương pháp gieo mà hạt giống được phân bổ tương đối đều ở mặt ruộng, việc lấp hạt có thể không cần sâu và kín. Phương pháp này được áp dụng để gieo những giống ngắn ngày và hạt nhỏ.

- Gieo hàng: Hạt giống được phân bố thành từng hàng, tuỳ theo giống và điều kiện đất đai mà khoảng cách có khác nhau. Đây cũng là phương pháp phổ biến để gieo trồng ngô.

- Gieo hốc: Hạt được phân bố thành từng hốc (cụm) mỗi hốc có một số hạt. Đặc trưng của phương pháp này là khoảng cách giữa các hốc và khoảng cách giữa các hàng, các hốc kề nhau tạo thành những ô vuông hay không vuông.

- Trồng ngô bầu: Hạt giống được cấy vào bầu ươm thành cây có 3 - 4 lá thì đem trồng ra ruộng. Đặc trưng của phương pháp này là trồng đúng khoảng cách mật độ, tỷ lệ sống cao. Phương pháp được sử dụng phổ biến vào vụ ngô đông.

2. Các tiêu chí lựa chọn phương pháp gieo trồng

Việc lựa chọn gieo trồng ngô theo hình thức nào cần căn cứ vào nhiều yếu tố:

- Căn cứ vào cơ cấu luân canh cây trồng: nếu cây ngô nằm trong công thức luân canh 2 vụ với cây màu hoặc độc canh ngô, thời gian sinh trưởng của cây trồng không bị hạn hẹp thì có thể lựa chọn bất kì hình thức gieo trồng nào chỉ cần phù hợp và thuận lợi nhất với người trồng. Nếu ngô nằm trong công thức luân canh sau cây lúa nước thì buộc phải lựa chọn hình thức trồng ngô bầu.

- Thời gian sinh trưởng của giống: giống ngô có thời gian sinh trưởng dài mà nằm trong công thức luân canh bị hạn chế bởi thời gian thì có thể hạn chế thời gian sinh trưởng của ngô trên ruộng bằng cách làm ngô bầu.

- Điều kiện thời tiết, tự nhiên của vùng: đa số các vùng trồng ngô của nước ta phụ thuộc vào nước trời là chủ yếu. Nếu giai đoạn gieo ngô có đủ ẩm có thể lựa chọn hình thức nào cũng được, nhưng nếu gặp phải thời điểm trồng khô hạn, rét kéo dài hạt khó nảy mầm và chăm sóc thì nên chọn hình thức làm ngô bầu để chăm sóc được tốt hơn, tỷ lệ nảy mầm cao, cây con khỏe.

Nguồn: Giáo trình gieo trồng ngô - Bộ NN&PT NT
Bài liên quan
DMCA.com Protection Status