Cây hà thủ ô đỏ
Tên khoa học: Polygonum multiflorum Thunb. hoặc Fallopia multiflora (Thunb.)
Thuộc họ: Rau răm (Polygonaceae)
Tên gọi khác: Xích thủ ô, thủ ô, giao đằng, dạ giao đằng, dạ hợp, địa tinh, khua lình (Thái), măn đăng tua lình (Lào - Sầm Nưa), mằn năng ón (Thổ)...
Đặc điểm thực vật học, mô tả sơ bộ về cây hà thủ ô đỏ
Cây hà thủ ô đỏ là một loại dây leo, sống nhiều năm. Thân mọc xoắn vào nhau. mặt ngoài thân có màu xanh tía có những vân hoặc bì khổng, mặt thân nhẵn, không có lông.
Đặc điểm thực vật học Hà thủ ô đỏ
Lá mọc so le, có cuống dài. Phiến lá hình tim hẹp, dài 4-8cm, rộng 2,5 - 5cm, đầu nhọn, phía cuống hình tim, hoặc hình mũi tên, nhẵn và không có lông. Lá kèm mỏng, màu nâu nhạt, ôm lấy thân.
(a) lá hà thủ ô; (b) rễ củ hà thủ ô; (c) thân rễ hà thủ ô; (d) thân dây hà thủ ô khô
Hoa nhỏ, đường kính 2mm, có cuống ngắn từ 1-3mm. Hoa mọc thành chùm nhiều nhánh. Cánh hoa màu trắng. Nhị tám với ba nhị hơi dài hơn. Bầu hình ba cạnh, vòi nhụy ngắn gồm ba cái rời nhau, nuốm hình mào gà, rủ xuống. Mùa hoa tháng 10, mùa quả tháng 11.
Hoa hà thủ ô đỏ
Đặc điểm sinh thái của cây hà thủ ô đỏ
Cây hà thủ ô đỏ trồng trong chậu
Cây hà thủ ô mọc hoang ở các vùng rừng núi, có phổ sinh thái rộng. Hà thủ ô là cây dược liệu quý nên được trồng rộng rãi ở nhiều nơi, cây có thể sinh trưởng phát triển tốt ở cả vùng đồng bằng. Cây phát triển thích hợp ở nhiệt độ từ 22oC đến 27oC, yêu cầu lượng mưa: 1.500 - 2.000mm. Thích hợp đất có thành phần cơ giới nhẹ đến trung bình, đất tơi xốp nhiều mùn tầng đất dày 50 - 100cm, chua yếu, pH 5-6,5…
Phân bố và thu hái hà thủ ô đỏ
Cây hà thủ ô mọc hoang ở rừng núi, nhiều nhất ở các tỉnh Tây Bắc sau đến các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, lào Cai, Lai Châu, Tây Nguyên. Một số nước Châu Á cũng có cây hà thủ ô sinh sống như Nhật Bản, Trung Quốc (Giang Tô, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Phúc Kiến).
Thu hái và chế biến: Bộ phận dùng làm thuốc của cây Hà thủ ô đỏ là rễ củ. Thu hoạch quanh năm, tốt nhất là vào mùa thu đông, khi cây khô héo. Đào lấy rễ củ, rửa sạch đất cát, loại bỏ rễ con, đem phơi hay sấy nhẹ cho khô (có thể đồ chín trước khi làm khô).
Thành phần hóa học trong hà thủ ô đỏ
Hà thủ ô đỏ chứa 1,7% anthraglycozid; crysophanol, emodin, rhein; chứa 1,1% protid; 42,2% tinh bột; 4,5% chất vô cơ; 24,6% chất tan trong nước. Thành phần hoá học của Hà thủ ô đỏ biến đổi trong quá trình chế biến. Hà thủ ô sống chứa 7,68% tanin, 0,259% dẫn chất anthraquinon tự do, 0,805% anthraquinon toàn phần. Hà thủ ô sau chế biến chứa 3,82% tanin, 0,113% anthraquinon tự do, 0,25% dẫn chất anthraquinon toàn phần. Chất phospholipid có 3,49% trong dược liệu thô và 1,82% trong dược liệu đã chế biến.
Tác dụng dược lý của hà thủ ô đỏ
- Lexitin là thành phần chủ yếu của thần kinh hệ cho nên hà thủ ô có thể dùng trong những trường hợp suy nhược thần kinh và bệnh về thần kinh. Lexitin còn giúp sự sinh ra huyết dịch và bổ tim. Dung dịch lexitin pha loãng 1/10.000 đến 1/200.000 có tác dung làm mạnh tim cô lập, nếu tim đã yếu mệt thì tác dụng lại càng rõ rệt hơn. Lexitin là một nguồn photpho dễ hấp thụ và giúp cho hiện tượng chuyển hóa chung được cải thiện.
- Do thành phần anthraglucozid, hà thủ ô có tác dụng làm xúc tiến sự co bóp của ruột, xúc tiến sự tiêu hóa, cải thiện dinh dưỡng.
- Tăng đường máu ở thỏ: Cho thỏ uống nước sắc hà thủ ô rồi theo dõi ảnh hưởng đối với lượng đường trong máu thì thấy sau khi uống 30 phút đến 60 phút, lượng đường trong máu tăng tới mức cao nhất, sau đó giảm dần, 6 giờ sau khi uống thuốc, lượng đường trong máu so với mức bình thường thấp hơn 0,03%.
- Tác dụng nội tiết kiểu oestrogen làm tăng trương lực tử cung trong những thí nghiệm tử cung cô lập; làm tăng tiết sữa, chống viêm trên in vivo.
- Tác dụng nâng cao tỷ lệ sống sót, hoặc kéo dài thời gian cầm cự ở động vật đã bị tiêm nọc rắn độc; tác dụng ức chế co thắt cơ trơn ruột cô lập gây bởi histamin và acetylcholin; tác dụng chống co thắt khí - phế quản, kéo dài thời gian an toàn trong mô hình khí dung histamin.
- Tác dụng chống viêm trên các mô hình gây viêm thực nghiệm; gây phù cấp tính và viêm mãn tính gây rỉ dịch màng phổi bằng tinh dầu thông; gây viêm dị ứng và viêm đa khớp bằng BCG.
- Tác dụng hạ lipid máu, ngăn ngừa sự phát triển của xơ vữa động mạch.
Tính năng công dụng của hà thủ ô đỏ
- Hà thủ ô đỏ có vị đắng, chát, hơi ngọt, tính ấm. Có tác dụng bổ gan thận, bổ máu, ích tinh tuỷ, hoá khí huyết, mạnh gân xương, nhuận tràng.
- Rễ Hà thủ ô có tác dụng bổ máu, chữa thận suy, gan yếu, tinh thần suy nhược, ngủ kém, sốt rét kinh niên, thiếu máu, đau lưng mỏi gối, di mộng tinh, khí hư, đại tiểu tiện ra máu, khô rát, táo bón, da mẩn ngứa không khỏi... Uống lâu làm đen râu tóc với người sớm bạc tóc, làm tóc đỡ khô và rụng. Không dùng Hà thủ ô đỏ cho người có bệnh huyết áp và đường huyết thấp. Khi dùng thì kiêng ăn hành, tỏi, củ cải....
- Theo một số tài liệu nước ngoài, ở ấn Độ, rễ Hà thủ ô được dùng làm thuốc bổ, chống bệnh scorbut, làm đen râu tóc...; ở Trung Quốc, Hà thủ ô sống có tác dụng thông tiểu, giải độc tiêu ung thũng, chữa cho phụ nữ sau khi đẻ, người bị ghẻ lở, tràng nhạc... Hà thủ ô chế có tác dụng bổ gan thận, ích tinh huyết, dùng làm thuốc an thần, tăng lực trong các trường hợp thân thể suy yếu, chóng mặt, tim hồi hộp, nhức đầu, mất ngủ, suy nhược thần kinh, còi xương...; ở Nhật Bản, Hà thủ ô đỏ được dùng chữa bệnh viêm da mủ, lậu, nấm favut ở chân...
Tính năng công dụng của hà thủ ô sống
Củ Hà thủ ô đỏ sống (chưa qua chế biến)
"Hà thủ ô sống" (sinh hà thủ ô) thường dùng chữa lở ngứa sưng đau, đại tiện táo bón, tràng nhạc, sốt rét lâu ngày, ... Còn "hà thủ ô chế" dùng để bồi bổ, chữa các chứng hư tổn, tinh suy huyết thiểu, người gầy yếu, da thịt xanh xao vàng vọt, đầu choáng, mắt hoa, tai ù, râu tóc bạc sớm, lưng gối đau mỏi.
Chế biến hà thủ ô đỏ
Hà thủ ô thái lát, ngâm nước vo gạo một ngày đêm, rửa lại cho sạch rồi tiếp tục chế với nước đậu đen. Mỗi 1kg hà thủ ô cần dùng 100g đậu đen. Cho đậu đen vào nồi, đổ khoảng 2 lít nước, nấu cho đậu đen chín nhừ rồi chắt lấy nước. Trộn hà thủ ô với nước đỗ đen, cho vào đồ đựng (không dùng đồ sắt), đặt vào nồi hấp cho đến khi nước đỗ đen thấm hết vào các miếng hà thủ ô, sau đó lấy ra phơi hoặc sấy khô là được.
Nấu và phơi hà thủ ô với nước đậu đen
Đó là cách chế thông thường. Muốn chế kỹ cần "cửu chưng cửu sái" - nghĩa là nấu và phơi hà thủ ô với nước đậu đen như trên 9 lần.
Còn khi ngâm rượu nên phối hợp với những vị thuốc nào có tác dụng tốt nhất, thì tùy thuộc vào tình hình sức khỏe và mục đích sử dụng.
- Người huyết kém (huyết hư), cần bổ huyết mạnh, thì nên phối hợp với thục địa, đương quy, bạch thược, ...
- Người khí hư, hay vã mồ hôi, kém ăn, thì nên phối hợp với nhân sâm, hoàng kỳ,...
- Người can thận bất túc, âm tinh khuy tổn, khiến râu tóc sớm bạc, lưng gối yếu mỏi, hay choáng đầu hoa mắt, tai ù, nặng tai, thì phối hợp với những vị thuốc có tác dụng bổ thận ích tinh, như bổ cốt chi, câu kỷ tử, thỏ ti tử, ...
Nói chung, tốt nhất nên có sự tư vấn cụ thể của thầy thuốc Đông y chuyên nghiệp.
Một số bài thuốc từ cây hà thủ ô đỏ
1. Đơn thuốc bổ dùng cho người già yếu, thần kinh suy nhược, ăn uống kém tiêu: Hà thủ ô 10g, đại táo (táo đen Trung Quốc 5g, thanh bì 2g, trần bì 3g, sinh khương 3g, cam thảo 2g, nước 600ml. Sắc còn 200ml, chia 3-4 lần uống trong ngày.
2. Bài thuốc Thất bảo mỹ nhiệm đơn: Làm cho tóc râu trắng hóa đen, khỏe gân xương, bền tinh khí, sống lâu.
Hà thủ ô đỏ và hà thủ ô trắng mỗi thữ 600g ngâm nước vo gạo 4 ngày đêm, cạo bỏ vỏ, dùng đậu đen đãi sạch rồi cho hà thủ ô vào chõ: Một lượt hà thủ ô, một lượt đậu đen bắc lên bếp đồ chín đậu đen, đem bỏ đậu lấy hà thủ ô phơi khô, rồi lại đồ, làm như vậy 9 lần. Cuối cùng lấy hà thủ ô sấy khô và tán bột.
Xích và bạch phục linh mỗi vị 600g, cạo bỏ vỏ tán bột, đãi với nước trong, lọc lấy bột lắng ở dưới, nắm lại, tẩm với sữa mẹ phơi khô.
Ngưu tất 320g tẩm rượu một ngày, thái mỏng trộn với hà thủ ô, đồ với đậu đen vào lần thứ 7,9 và 9 đem ra phơi khô.
Đương quy 320g tẩm rượu phôi khô. Câu kỷ tử 320g tẩm rượu phơi khô.
Thỏ ty tử 320g tẩm rượu cho nứt ra, giã nát phơi khô.
Bổ cốt chi 100g, trộn với vừng đen (hắc chi ma) sao cho bốc mùi thơm. Tất cả giã nát trộn đều thêm mật vào làm thành viên 0,5g (bằng hạt ngô). Ngày uống 3 lần, mỗi lần 50 viên. Sáng dùng rượu chiêu thuốc, trưa dùng nước gừng và tối dùng nước muối.
3. Tiến sĩ Võ Văn Chi giới thiệu một số bài thuốc tư cây hà thủ ô như sau:
- Người già xơ cứng mạch máu, huyết áp cao hoặc nam giới tinh yếu khó có con: Dùng hà thủ ô 20 g, tầm gửi dâu, kỳ tử, ngưu tất đều 16 g, sắc uống.
- Chứng cholesterol trong máu cao: Hà thủ ô tươi 900 g rang giòn, nghiền bột. Mỗi lần dùng lấy 15 g, uống với nước sôi để ấm. Ngày 2 lần. Liên tục 30 ngày.
4. Trị táo bón: trị táo bón do huyết hư, tân dịch hao tổn, dùng Tứ thạch, Đơn thạch, Đơn sâm, Ngũ vị tử, Toan táo nhân, Xuyên khung (lượng nhỏ), có kết quả. Có tác giả dùng dịch tiêm Hà thủ ô 20% tiêm bắp mỗi lần 4ml, ngày 1 lần, 20 - 30 ngày là một liệu trình; trường hợp nặng chích 1 ngày 2 lần, cách nhật, liệu trình 15 - 20 ngày, nghỉ 15 - 20 ngày, ngủ khá hơn thì 9 ngày 1 lần hoặc uống Hà thủ ô mỗi lần 5 - 7 viên (0,5g/viên), ngày 3 lần, trường hợp uống lâu dài, ngày 2 lần sáng tối. Trường hợp bệnh nhẹ hoặc bệnh giảm, mỗi tối uống 6 - 10 viên trước lúc ngủ. Uống và chích thay đổi dùng. Đã trị 141 ca, khỏi lâm sàng 53,9%, tiến bộ ngủ tốt 44,7%, tỷ lệ có kết quả 98,6%, theo tác giả tốt hơn loại thuốc ngủ Bromure và Meprobamate (Bệnh viện 201 Giải phóng quân, Phân tích lâm sàng 141 ca mất ngủ bằng Hà thủ ô, Thông tin Trung thảo dược 1974,5:38).
5. Trị ho gà: dùng Hà thủ ô 6 - 12g, Cam thảo 1,5 - 3g, mỗi ngày 1 thang sắc, chia 4 - 6 lần uống, có người uống xong tiêu chảy nhẹ, dùng Kha tử hoặc Anh túc xác. Đã trị 35 ca khỏi 19 ca, cơ bản khỏi 8 ca, tiến bộ 4 ca, không kết quả 1 ca (Vương Khởi Minh, Báo cáo về kết quả bước đầu điều trị ho gà bằng Hà thủ ô, Báo Trung y Giang tô 1965,3:10).
6. Trị sốt rét: Dùng Hà thủ ô 18 - 25g, Cam thảo 1,5 - 3g, trẻ em giảm lượng, sắc đặc sau 2 giờ, chia 3 lần uống trước bữa ăn. Trị 17 ca kết quả đều tốt (Vương Khaởi Minh, Báo cáo 17 ca sốt rét điều trị bằng Hà thủ ô, Báo Y học Quảng Đông 1964,4:31).
8. Trị tóc bạc: Dùng Hà thủ ô chế, Thục địa hoàng mỗi thứ 30g, Đương qui 15g, ngâm vào 1000ml rượu trắng 10 - 15 ngày, sau cùng mỗi lần 15 - 30ml, uống liên tục cho đến khi kết quả. Điều trị 36 ca (20 ca bạc từng đám, 16 ca rải rác bệnh kéo dài từ 1 đến 10 năm, kết quả khỏi 24 ca, tiến bộ 8 ca, tỷ lệ kết quả 88,9% (Triệu Hồng Bân, Rượu Hà thủ ô trị tóc bạc, Tạp chí Trung Y Sơn đông 1983,4:41).
9. Trị tổn thương thần kinh quay: dùng Hà thủ ô 30g sắc, chia uống sáng và chiều, liệu trình 1 tháng. Theo dõi 14 ca, tỷ lệ khỏi 86,7% (Truyền Bằng Liêu, Báo cáo 14 ca tổn thương thần kinh quay trị bằng Hà thủ ô, Tạp chí Trung hoa Trung y cốt thương khoa 1988,1:34).
Kiêng kỵ khi sử dụng hà thủ ô đỏ
Người sử dụng hà thủ ô đỏ nên kiêng ăn hành củ, tỏi và củ cải trắng; ngoài ra, còn phải kiêng cả ớt và hồ tiêu, vì đó đều là những thứ cay nóng, có tính phát tán, làm hao tổn tinh huyết.
N.Ha tổng hợp từ: Cây thuốc và những vị thuốc Việt Nam - GS. TS. Đỗ Tất Lợi, Từ điển cây thuốc Việt Nam - Võ Văn Chi; rcmp.org.vn; vi.wikipedia.org, phununet.com; thuocvuonnha.com.