Các loại địa lan phổ biến ở Việt Nam

Cây trồng liên quan: Hoa Lan

Địa lan là gì? Đây là những loài lan mọc trên đất, có rễ ăn vào trong đất hoặc len lỏi giữa các kỹ đá. Thân cây có thể nổi trên mặt đất (bán địa lan) hay ngập trong đất (địa lan thật).

1. Nhóm lan Gấm

Nhóm này được trồng làm cảnh chủ yếu vì có lá màu sắc đẹp. Những loài này mọc trên núi đá hoặc núi đất, thân ngầm nổi, rễ ăn vào lớp thảm mục của rừng. Phần lớn các loài lan Gấm nói riêng và Địa lan nói chung ra hoa vào mùa đông hay đầu xuân.

  • Lan lá Gấm (Ludisia dicolor)

Cây có thân rễ bò dài, sau đó vươn lên, mật. Lá bầu dục, phiến màu nhung đen, nổi rõ các gân mảnh dọc theo lá màu đỏ, mặt dưới lá đỏ. Cụm hoa mọc thẳng từ đỉnh, hoa thưa màu trắng. Lan gấm gặp ở hầu hết các vùng trong cả nước ở độ cao thấp.

Lan lá Gấm (Ludisia dicolor)

Lan lá Gấm (Ludisia dicolor)

Loài này tương đối khó trồng. Cây ưa bóng râm, 30-50% ánh sáng. Tưới nước thường xuyên nhưng tránh đọng nước vào thân lá. Dùng chậu nông, lót than, trên rải rêu, xơ dừa, pha thêm một ít đất với than bùn. Chỉ đặt thân lên mặt chậu rồi dùng rêu, lá khô phủ thân, không được chôn vì dễ làm thối thân. Cây có hoa tháng 2-3, bền 20-40 ngày, thơm. Loài được trồng làm cảnh do có vân màu sắc đẹp, thích hợp để bàn, trang trí nội thất tốt vì có khả năng chịu bóng và có kích thước nhỏ.

  • Loài đáng chú ý khác:

Các loài trong chi Kim tuyến (Anoectochilus), Gấm đất (Goodyera) có cấu trúc thân và lá tương tự như Lan lá Gấm cũng là những loài có tiềm năng trang trí nội thất cao. Tuy nhiên, những loài này nhạy cảm với nước đọng, không chịu được nhiệt độ cao trong mùa hè ở Hà Nội. Loài thích hợp trang trí bên cửa sổ trong các phòng có điều hòa nhiệt độ.

2. Nhóm Lan đất

Đây là những loài Lan mọc trong các bãi cỏ ven rừng, cạnh ruộng. Cây phát triển trên đất có nhiều khoáng sét, tầng đất này. Do vậy những loài này thường dễ trồng, thích hợp trồng trong chậu như những cây cảnh thông thường. Đất trồng có thể là đất vườn, bổ sung một ít mùn bằng than bùn hay giá thể hữu cơ khác.

  • Lan Hạc đính nâu (Phaius takervilleae)

Cây có củ giả lớn, thân cao 50-60cm, lá lớn. Cụm hoa thẳng, mọc từ nách lá gốc củ giả, cao tới 70cm. hoa nhiều, rất lớn, màu trắng ở mặt ngoài, nâu ở mặt trong. Cánh môi màu đỏ có vạch vàng. Cây mọc rải rác ở hầu hết các vùng trên các sình lầy ở độ cao thấp và trung bình.

Hạc đính nâu (Phaius takervilleae)

Loài lan này dễ trồng, ưa bóng râm. Tưới nước thường xuyên nhưng tránh đọng nước. Đất trồng cần thoáng, xốp, hoặc trộn rêu, dớn mục. Bón phân hữu cơ nhiều có tác dụng tốt. Hoa thơm nở tháng 2-3, vào dịp 8/3, bền 20-30 ngày.

Cùng chi Hạc đính còn có một số loài khác có hoa vàng, trắng hay hồng. Tuy nhiên ít thấy những loài này có bán ở Hà Nội.

  • Lan Chu đinh tím (Spathoglottis plicata)

Cây có củ giả nhỏ, thân cao 40-50cm. lá thuôn dài. Cụm hoa thẳng mang hoa ở đỉnh. Có từ 7-10 bông, lớn, màu tím hay trắng. Cánh môi màu tím đậm, có họng vàng nhỏ. Loài có nguồn gốc từ vùng phía Nam trên núi đất ở độ cao thấp.

Chu đinh tím (Spathoglottis plicata)

Chu đinh tím là loài cây Lan rất dễ trồng, ưa sáng. Cây có thể trồng trong chậu cảnh hay trồng ven tường thành hàng hoa. Hoa nở hầu như quanh năm, không có mùa xác định. Hoa bền và thơm. Khi chăm sóc, cần tưới thường xuyên nhưng tránh để đọng nước. Dùng đất vườn thoáng, xốp trộn với một phần giá thể hữu cơ. Bón phân hữu cơ có nhiều tác dụng tốt cho cây và hoa.

Cùng chi lan Chu đinh có thể gặp một số loài khác có hoa vàng hay trắng, nhưng ít thấy có tại Hà Nội.

3. Một số loài lan Hài

  • Lan Hài hồng (Paphiopedilum Delenatii)

Lan Hài hồng (Paphiopedilum Delenatii)

Lan Hài hồng (Paphiopedilum Delenatii)

Loài lan này có mặt ở Nha Trang (Khánh Hòa) và giữa Ninh Thuận - Khánh Hòa tại độ cao khoảng 800 - 1300m. Dễ trồng, hoa có màu trắng pha hồng, đặc biệt cánh môi thường có màu hồng. Mọc trên đất. Cây có các hình lá bầu dục dẹp màu xanh với vân đậm nhạt, ở mặt trên và dưới có nhiều chấm nâu đỏ đôi khi dày đặc thành một màu hung đỏ. Cụm hoa thường mang 1-2 hoa, kích thước hoa 9x7cm, hoa thường nở vào mùa đông, độ bền hoa 20-40 ngày, có hương thơm. Cây ưa ẩm và thoáng, ánh sáng tán xạ che 10-40%, nhiệt độ 13-350C. Giá thể thích hợp là mùn, dớn hoặc xơ dừa.

  • Lan Hài liên (Paphiopedilum tranlienianum)

Lan Hài liên (Paphiopedilum tranlienianum)

Lan Hài liên (Paphiopedilum tranlienianum)

Loài này có mặt ở Thái Nguyên với độ cao trung bình từ 500-800m, dễ trồng, hoa có màu nâu với đài trên màu trắng, mọc trên đất đôi khi trên đá. Cây có các loại lá dạng dải, hơi mềm, mặt trên màu xanh đậm với mép lá màu xanh hay màu trắng, mặt dưới xanh nhạt. Cụm hoa mang 1 hoa, kích thước hoa 6x7cm, hoa thường nở vào mùa đông, độ bền hoa > 45 ngày, hơi có hương thơm. Cây ưa ẩm và thoáng, ánh sáng tán xạ che 10-40%, nhiệt độ 5-350C. Giá thể thích hợp là dớn và xơ dừa và nên bổ sung đá vôi.

  • Lan Hài Heri (Paphiopedilum henryanum)

Lan Hài Heri (Paphiopedilum henryanum)

Lan Hài Heri (Paphiopedilum henryanum)

Loài này có mặt ở Hà Giang với độ cao trung bình từ 1000 - 1200m. Dễ trồng, hoa có màu đỏ sen, cánh trắng màu nâu đỏ pha xanh và đài trên mang màu xanh vàng với các chấm to màu nâu đỏ, mọc trên đất. Cây có lá hơi dựng, cứng và hơi dày, dạng vàng, mặt trên xanh đậm với mép lá vàng hay trắng vàng, mặt dưới màu xanh nhạt với các chấm nhỏ dày đặc màu nâu đỏ ở gốc lá. Cụm hoa thường mang 1 hoa, kích thước hoa 8x7cm, hoa thường nở vào mùa thu-đông, độ bền hoa 20-40 ngày, không có hương thơm. Cây ưa ẩm và thoáng, ánh sáng tán xạ che 10-40%, nhiệt độ 5-350C. Cây ưa độ thông thoáng, giá thể thích hợp là dớn và xơ dừa.

  • Lan Hài Hecman (Paphiopedilum herrmannii)

Lan Hài Hecman (Paphiopedilum herrmannii)

Loài này có mặt ở Cao Bằng với độ trung bình từ 800 - 1200m. hoa có màu nâu đỏ ở cánh tràng, đỏ ở môi và đài màu nâu đỏ với viền màu xanh nhạt. Sống trên đất, cây có lá dạng dài và nhỏ và hơi cứng, mặt trên có màu xanh bóng với mép lá màu xanh nhạt, cụm hoa mang 1 hoa, kích thước hoa 8x7cm, hoa thường nở vào mùa đông xuân, độ bền hoa 20-44 ngày, không có hương thơm. Cây ưa ẩm và thoáng, ánh sáng tán xạ 10-40%, nhiệt độ 8-350C, cây ưa độ ẩm và thoáng, giá thể thích hợp là dớn và xơ dừa.

Phân bố: Đây là một loài lai tự nhiên giữa Paph. Barbigerum x Hirsutissimum var esquirolei phân bố ở khu vực biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

  • Loài lan hài Việt (Paphiopedilum vietnamense)

Loài Hài Việt (Paphiopedilum vietnamense)

loài lan hài Việt (Paphiopedilum vietnamense)

Loài này hiện diện ở Thái Nguyên với độ cao trung bình 1000m, dễ trồng, hoa có màu hồng pha trắng đến đỏ tím, mọc trên đất hay bám trên đá. Cây có lá to, bóng, dạng xoăn và dai, mặt trên bóng xanh với các vân đậm nhạt, mặt dưới có nhiều chấm nâu đỏ dày đặc đến đồng màu nâu đỏ. Cụm hoa mang một hoa, ít khi có hai hoa, kích thước hoa 9x12cm, hoa thường nở vào mùa đông xuân, độ bền hoa 20-44 ngày, ít thơm. Cây ưa ẩm và thoáng, ánh sáng tán xạ che 10-40%, nhiệt độ 8-350C, giá thể thích hợp là dớn, xơ dừa hoặc mùn và nên bổ sung đá vôi.

  • Loài lan hài hằng (Paphiopedilum hengianum)

Loài Lan Hài hằng (Paphiopedilum hengianum)

Loài Lan Hài hằng (Paphiopedilum hengianum)

Hiện diện ở Tuyên Quang, Bắc Cạn với độ cao trung bình 800 - 1000m. Hoa có màu vàng đến vàng nhạt hay vàng xanh, mọc trên đất hay bám tren đá. Cây có lá thuôn dài, to và cứng, mặt trên có màu xanh đậm, mặt dưới có màu xanh nhạt. Cụm hoa mang 1 hoa, hiếm khi có hai hoa, kích thước hoa 9x12cm, hoa thường nở vào mùa đông xuân, độ bền hoa 20-44 ngày, ít thơm. Cây ưa ẩm và thoáng, ánh sáng tán xạ che 10-40%, nhiệt độ 8-350C, giá thể thích hợp là dớn, xơ dừa hoặc mùn và nên bổ sung đá vôi.

  • Loài lan hài vàng chấm tím (nâu) (Paphiopedilum concolor)

Loài lan hài vàng chấm tím (nâu) (Paphiopedilum concolor)

Loài này có mặt ở Ninh Bình, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Bắc Giang với độ cao trung bình từ 100 - 1000m, dễ trồng, hoa thường có màu trắng đến vàng nhạt, trên cánh có nhiều chấm nhỏ màu nâu đỏ, mọc trên đất. Cây có lá hình xoan dài, màu xanh với các vân đậm nhạt ở trên mặt và mặt dưới có nhiều chấm màu nâu đỏ đôi khi đồng nhất màu nâu đỏ ở mặt dưới. Cụm hoa thường mang 1-3 hoa, kích thước hoa 6x6cm, hoa thường nở vào mùa xuân hè, độ bền hoa 20-44 ngày, ít thơm. Cây ưa ẩm và thoáng, ánh sáng tán xạ che 10-40%, nhiệt độ 10-350C. Giá thể thích hợp là dớn, xơ dừa.

  • Loài lan hài Hê len (Paphiopedilum helenae)

Loài lan hài Hê len (Paphiopedilum helenae)

Loài lan hài Hê len (Paphiopedilum helenae)

Loài này có mặt ở Cao Bằng tại độ cao 800-1000m, hoa có màu vàng nhạt, đài trên màu vàng với mép màu trắng, mọc bám trên đá. Cây nhỏ với các lá cứng, hơi dày và hẹp dài, mặt trên có màu xanh đậm với mép lá có màu vàng nhạt hay trắng xanh, mặt dưới xanh nhạt với gốc lá có các chấm nhỏ màu nâu đỏ. Cụm hoa mang một hoa, kích thước hoa 6x7cm, hoa thường nở vào mùa thu đông, độ bền hoa 20-44 ngày, không thơm. Cây ưa ẩm và thoáng, ánh sáng tán xạ che 10-40%, nhiệt độ 10-350C. Giá thể thích hợp là dớn, xơ dừa và nên bổ sung đá vôi.

  • Loài lan hài tía (Paphiopedilum purpuratum)

Loài lan hài tía (Paphiopedilum purpuratum)

Loài lan hài tía (Paphiopedilum purpuratum)

Loài này hiện diện ở Lâm Đồng, Tuyên Quang tại độ cao trung bình 700m, rất dễ trồng, hoa có màu nâu đỏ đến đỏ tím với đài trên màu trắng có sọc nâu tím pha xanh, mọc trên đất. Cây có lá dạng xoan, mặt trên có màu xanh với các vân đậm nhạt, mặt dưới có màu xanh nhạt đến chấm xanh, cụm hoa mang 1 hoa lớn, kích thước hoa 8x6,5cm, hoa thường nở vào mùa đông xuân, độ bền hoa >45 ngày, không thơm. Cây ưa ẩm và thoáng, ánh sáng tán xạ che sáng 10-40%, nhiệt độ 5-350C, giá thể thích hợp là dớn, xơ dừa.

Một số loài địa lan thuộc chi lan Kiếm:

Cây có bộ lá xanh, bóng, đẹp, hoa nở vào dịp tết Nguyên Đán, đặc biệt có hương thơm rất hấp dẫn như loài Mạc Đại Hoàng Biên - Cymbidium sp. Cây mọc nhiều ở vùng núi phía Bắc giáp Trung Quốc, vùng Hòa Bình, Lai Châu, Sơn La. Một số loài địa lan cũng thuộc chi lan Kiếm nhưng nở hoa vào cuối tháng 9 đến tháng 11 dương lịch. Cây có bộ lá đẹp, cứng, hoa thơm, đặc biệt là những ngày có gió heo may mùi thơm lại càng hấp dẫn. Đại diện cho loại này là Trần mộng - Cymbidium sp, Đông Lan - Cymdibium sp. Cây phân bố rộng ở các vùng núi đá vôi thuộc các tỉnh phía Bắc.

Một số loài đáng chú ý khác:

Lan sậy (Arudina graminifolia) có thân mảnh, lá dạng cỏ. cụm hoa mọc từ đỉnh, nhiều hoa nhưng hoa nở dần. Hoa lớn, màu hồng họng tía với đốm vàng, nở không có mùa xác định. Loài có rải rác ở các bãi ven núi từ Bắc vào Nam. Thỉnh thoảng có bán ở Hà Nội nhưng ít người trồng.

Các loài địa lan lai tạo (Địa lan hoa to)

Theo phân loại thực vật, địa lan có chừng 48 loài, ở Trung Quốc có 30 loài, được chia ra làm hai loại là loại hoa nhỏ và hoa to. Hiện nay có khoảng 20 loại lan được dùng làm nguyên liệu lai tạo, gồm có loại hoa lan như Lan đầu hổ, Lan mỹ hóa, Lan bích ngọc, Lan đầu hổ Tây Tạng, Lan độc chiếm xuân, phong lan tím, phong lan châu Âu, phong lan đức thị, đại tuyết lan... Những giống lan lai được tạo thành từ các loài trên có tới vài nghìn. Hiện nay có những loại ra hoa sớm, ra hoa muộn, muộn trung bình, có loại cho hoa to, hoa xanh, hoa nhiều màu, lại có hoa hình dáng, màu sắc, hương thơm đa dạng.

Nguồn: Giáo trình Hoa Lan - Đại học Thái Nguyên (Trường Đại học Nông Lâm)
Bài liên quan
  • Các loài phong lan rừng phổ biến ở Việt Nam Các loài phong lan rừng phổ biến ở Việt Nam
    Theo dạng thân và cách sống của cây, các loài phong lan rừng có thể được xếp thành một số nhóm dưới đây: phong lan đơn thân (lan có thân vươn dài và rễ khí, lan có thân ngắn rễ chùm) và phong lan đa thân...
DMCA.com Protection Status