Rầy phấn trắng
Họ: Aleyrodidae
Bộ: Homoptera
Triệu chứng gây hại của rầy phấn trắng hại lúa:
Rầy phấn trắng gây hại bằng cách chích hút nhựa cây lúa làm cho lá lúa chuyển sang màu vàng, cây phát triển kém, lá mới mọc ra sẽ bị triệu chứng xoắn lại giống như bị “siết cổ lá”; ở giai đoạn lúa làm đòng, lá cờ bị xoắn làm bông trổ không thoát; nếu trổ được hạt lúa sẽ bị lép toàn bộ.
Triệu chứng “siết cổ lá” lá rất giống bệnh lùn xoắn lá do virus. Tuy nhiên, kết quả giám định của TT. BVTV PN và IRRI bằng Elisa đều cho kết quả âm tính.
Đặc điểm hình thái rầy phấn trắng hại lúa:
* Vòng đời: Rầy phấn trắng có vòng đời khoảng 19.43 (±1.3) ngày, dao động từ 17-24 ngày.
Phát triển qua 4 giai đoạn: Thành trùng, trứng, ấu trùng và nhộng giả.
Vòng đời của rầy phấn trắng hại lúa Aleurocybotus sp.
* Thành trùng: Thành trùng trông giống một loài bướm nhỏ, có hai cặp cánh màu trắng, cặp cánh trước dài, cặp sau ngắn hơn, khi đậu xếp giống hình dáng của một mái nhà, mạch cánh đơn giản, ít vân cánh. Khi mới vũ hóa cánh còn yếu và trong suốt, thân màu vàng tươi, di chuyển chậm chạp và chưa thể bay được. Sau khi cánh khô, trên cánh và thân thấy có lớp phấn trắng, bắt đầu di chuyển nhanh nhẹn và bay được. Con cái có chiều dài thân khoảng 0.85-1.05 mm, và sải cánh 1.98-2.48 mm. Con đực nhỏ hơn, chiều dài thân từ 0.78-0.95 mm và sải cánh 1.55-1.78 mm.
Thành trùng rầy phấn trắng (rầy cánh trắng) Aleurocybotus sp.
* Trứng: Trứng được đẻ rời rạc hoặc từng ổ ở mặt trên và dưới. Mỗi con cái có thể đẻ 7-100 trứng. Chúng thường đẻ trứng tập trung ở 2/3 lá về phía chóp lá. Thời gian ủ trứng 6-8 ngày. Trứng có hình quả lê hơi thon dài, bề mặt nhẵn bóng, chiều dài trung bình 0.20mm, chiều rộng trung bình 0.09 mm. Trứng hình thon, một đầu hơi nhọn, đầu kia hơi tròn và có cuống ngắn gắn chặt trứng vào biểu bì của lá. Trứng lúc mới đẻ có màu trắng đục, một ngày sau chuyển sang màu nâu nhạt và màu nâu đậm khi sắp trứng nở.
* Ấu trùng: có 3 tuổi
Tuổi 1: mới nở có 3 đôi chân, hình bầu dục, hai mắt màu đỏ, chưa có lớp phấn. Chúng di chuyển đến gần gân lá hoặc xung quanh trứng để chích hút. Một ngày sau thì ấu trùng nằm bất động, chân còn cử động. Ngày thứ 2, chân không cử động. Ở ngày thứ 3, phần ống chân thoái hóa chỉ còn lại phần đùi. Chiều dài ấu trùng tuổi 1 là 0.25-0.29 mm, chiều rộng 0.09-0.16 mm.Thời gian tuổi 1 là 3-4 ngày.
Tuổi 2: Sau khi lột xác, cơ thể bám chặt vào mặt lá, không còn thấy dấu vết của các đôi chân. Chiều dài 0.40-0.64 mm, chiều rộng 0.20-0.31 mm. Cơ thể có lớp phấn mỏng. Thời gian tuổi 2 là 2-3 ngày.
Tuổi 3: Giống tuổi 2 về hình dạng và màu sắc, không di chuyển. Chiều dài 0.57-1.00 mm, chiều rộng 0.30-0.60 mm. Thời gian tuổi 3 là 2- 3 ngày. Ở cuối tuổi 3, chúng lột xác và chuyển sang giai đoạn nhộng,
* Nhộng giả: Sau khi lột xác chuyển sang giai đoạn nhộng, lớp vỏ bên ngoài cơ thể trở nên cứng hơn, tiết ra nhiều chất sáp và dính chặt vào bề mặt của lá. Nhộng có hình bầu dục, cơ thể chuyển sang trắng đục đôi khi có hơi ngã vàng. Chiều dài 0.89-1.09 mm, chiều rộng 0.52-0.62mm. Khi vũ hóa, thành trùng chui ra từ phần đầu để lại trên vỏ nhộng vết nứt hình chữ T. Thời gian nhộng giả 2 đến 4 ngày.