Lúa von
Bệnh lúa von rất phổ biến và gây hại lớn ở nhiều nước trồng lúa trong những năm trước đây. Năm 1943, Bugnicourt là người đầu tiên nghiên cứu và xác định bệnh lúa von ở Việt Nam. Năm 1956, gây hại nặng trên diện rộng ở vùng đồng bằng sông Hồng, có nơi thiệt hại đến 2/3 sản lượng . Năm 1970, bệnh xuất hiện và phá hoại nặng ở 1 số tỉnh Hải Hưng, Thái Bình, Nam Hà,...
1. Triệu chứng gây hại của bệnh lúa von
- Bệnh lúa von: Xuất hiện và gây hại ở giai đoạn mạ cho đến khi thu hoạch.
- Triệu chứng chung nhất của cây bị bệnh lúa von là cây phát triển cao vọt, cong keo mảnh khảnh. Lá lúa từ màu xanh lục chuyển dần sang màu xanh nhạt rồi vàng gạch cua, cứng giòn và chết nhanh chóng.
- Lóng thân cây bệnh phát triển dài ra, thường mọc nhiều rễ phụ ở đốt (rễ gió) và có thể thấy lớp phấn trắng phớt hồng bao quanh đốt thân và vị trí xung quanh đốt thân.
- Nếu bị nhiễm muộn, lá bị khô, giảm số chồi. Nếu nhiễm vào giai đoạn trước khi đâm chồi, cây mạ bị chết khô. Trường hợp sống sót, trỗ bông với toàn hạt lép hoặc lững. Chính những hạt lép lửng này, mang mầm bệnh. Vỏ hạt màu xám, nếu thời tiết ẩm ướt, trên vỏ hạt có thể xuất hiện lớp phấn trắng phớt hồng. Nếu thời tiết khô, trên đốt thân và vỏ hạt có nhiều chấm nhỏ li ti màu xanh đen.
- Phần lớn cây bị bệnh sẽ chết do thối gốc. Nếu cây lúa bị bệnh sống đến giai đoạn làm đòng, trỗ bông thì lóng cây vươn dài, rễ bất định mọc ở các đốt phía dưới gần gốc lúa; có thể quan sát thấy lớp nấm màu phấn trắng hoặc phớt hồng bao quanh trên vỏ hạt nếu thời tiết ẩm ướt, nếu khô trên đốt thân và vỏ hạt có nhiều chấm nhỏ li ti mầu xanh đen, đó chính là quả thể nấm. Cây bị bệnh sống được, có thể trỗ bông nhưng hạt bị lép hoặc lửng. Các bộ phận ở phía dưới mặt đất của cây (rễ, gốc thân) dễ bị nhiễm bệnh hơn các bộ phận ở phía trên mặt đất (bẹ lá, đốt thân...). Bệnh lúa von cũng có loại giống kháng hoặc giống nhiễm.
2. Nguyên nhân gây hại của bệnh lúa von
Năm 1898, Hori là người đầu tiên xác định bệnh và đặt tên nấm bệnh là Fusarium heterosporum.. Năm 1919, Sawada tìm thấy giai đoạn hữu tính của nấm và đặt tên là Lisea fujikuroi Sawada. Năm 1931, Ito và Kimura xác định tên nấm là Gibberalla Fujikuroi và giai đoạn vô tính Fusarium moniliforme. Bệnh lúa von là loại bệnh do loài nấm Fusarium moniliforme Shel gây nên do nguyên nhân truyền nhiễm hoặc lây nhiễm.
- Bào tử phân sinh gồm hai loại: bào tử nhỏ và bào tử lớn.
- Bào tử nhỏ đơn bào, hình trứng và hình hạt dưa gang, hình thành từ cành phân nhánh dạng chạc đôi hoặc không phân nhánh mọc trực tiếp từ sợi nấm, bào tử nhỏ tụ lại dạng bọc giả trên đầu cành hoặc hình thành dạng chuỗi, kích thước bào tử từ 3,4x20 - 1,3x4,1 micrromet.
- Bào tử lớn dài, cong hình trăng khuyết lưỡi liềm, một đầu hơi nhọn còn 1 đầu có dạng hình bàn chân nhỏ, thường từ 3 - 5 ngăn ngang.
- Giai đoạn hữu tính tạo quả thể bầu màu xanh đen hoặc tím đen dạng hạt chất đen nhỏ li ti trên bộ phận bị bệnh. Bào tử túi không màu, có vạch ngang, hình bầu dục, kích thước 9 - 22x5 - 12. Không tạo ra bào tử hậu.
- Nấm phát triển thích hợp ở nhiệt độ 25 - 30 độ C, tối thiểu là 10 độ C. Bào tử phân sinh dạng bào tử hậu bào tử có thể tồn tại và giữ sức sống trong đất 4 - 6 tháng trong điều kiện đồng ruộng, nhưng trong phòng bào tử hữu tính trên tàn dư cây bệnh ở trong đất và ở hạt giống.
3. Đặc điểm phát sinh, phát triển bệnh và lây lan của bệnh lúa von
- Nấm bệnh lưu tồn trong phôi hạt giống và trong đất, do bào tử phân sinh và quả thể bầu ở vết bệnh được nước mưa làm rơi xuống đất, tồn tại trong đất và trở thành nguồn bệnh. Trên đồng ruộng, bào tử phân sinh có thể tồn tại và giữ sức sống ở trong đất từ 4-6 tháng.
- Nấm bệnh có thể phát triển ở điều kiện nhiệt độ từ 10-37oC (thích hợp nhất ở điều kiện 24-32oC), ẩm độ cao và ánh sáng yếu. Trên đồng ruộng, bào tử phân sinh có thể tồn tại và sống trong đất từ 4-6 tháng. Nấm bệnh tồn tại chủ yếu dưới dạng sợi và bào tử hữu tính trên tàn dư cây lúa bị bệnh, trong đất và trong phôi hạt giống. Bệnh có thể lây truyền qua không khí, qua tàn dư của cây bị bệnh, nhưng chủ yếu là qua hạt giống.
- Bón phân đạm quá cao tạo điều kiện thích hợp cho bệnh phát triển. Bệnh còn có thể lây truyền qua không khí, gió hoặc - nước, qua tàn dư của cây bị bệnh vụ trước (rơm rạ), nhưng chủ yếu là qua hạt giống, vì thế muốn hạn chế bệnh rất cần phải xử lý hạt giống trước khi gieo hạt. Các bộ phận ở phía dưới của cây như rễ, gốc thân dễ bị nhiễm bệnh hơn các bộ phận ở phía trên của cây như bẹ lá, đốt thân. Thực tế đồng ruộng cho thấy ở giai đoạn mạ và thời kỳ đón đòng, thường bị nhiễm bệnh mạnh nhất.
- Nghiên cứu mới về thực vật học, một số nhà khoa học cho rằng có sự tham gia của 2 chất kích thích tố gibberelin (GA3) và acid fusaric (C10H13NO2). Chính kích thích tố gibberrelin gây nên sự vươn lóng và acid fusaric gây nên sự còi cọc.
- Ở Nhật, các nhà khoa học đã phát hiện bệnh lúa von trong nhiều loại cỏ họ hòa bản (chẳng hạn Panicum miliaceum L.), trên lúa mạch, bắp, lúa miến và mía đường. Các loài ký chủ phụ của nấm bệnh bao gồm cà chua, chuối, đậu đũa.v.v...
4. Biện pháp phòng trị bệnh lúa von
- Một số biện pháp phòng trị cấp thời.
+ Không sử dụng hạt lúa ở những ruộng đã bị bệnh làm giống cho vụ sau.
+ Sử dụng giống lúa xác nhận, mua ở các Trung tâm, Viện, Trường, Trạm, Trại hoặc những nơi sản xuất giống có uy tín. Hạt giống xác nhận phải đạt tiêu chuẩn: Không chứa quá 10 hạt cỏ dại trong 1 kg hạt giống;
+ Đối với lúa cấy, khi nhổ mạ cần chú ý tránh làm đứt chồi, rễ, tránh dập nát cây mạ, để hạn chế sự xâm nhập của nấm bệnh vào bên trong cây.
+ Kiểm tra ruộng lúa thường xuyên để phát hiện và nhổ bỏ kịp thời những cây bị bệnh, đem ra khỏi ruộng tiêu hủy.
+ Bố trí mùa vụ hợp lý, sạ thưa, bón phân cân đối giữa đạm, lân và kali để cây sinh trưởng, phát triển tốt, làm giảm bớt sự nhiễm bệnh của cây.
Bệnh chủ yếu lây qua hạt giống và lưu tồn trong đất. chính vì thế, 2 biện pháp được đề xuất trong phòng trừ là xử lý hạt giống và đất trước khi gieo sạ.
- Xử lý hạt giống
Loại bỏ toàn bộ hạt lép lửng, hạt cỏ trong nguồn giống gieo sạ.
Trước khi ngâm ủ, cần sàng sảy lại để loại bỏ hạt cỏ hoặc đãi trong nước nhiều lần để loại hạt cỏ và những hạt lúa lép, lửng. Nếu số hạt cỏ hơi nhiều >10 hạt/kg hạt giống thì nên tiến hành đãi bằng dung dịch nước muối 15%
a. Dùng dung dịch nước muối tỷ trọng = 1,13
Lúa giống ngâm nước sạch từ 24-36 giờ. Lúc này, lúa đã no nước, nhưng hạt cỏ và hạt lửng thì chưa. Chính những hạt này, mang mầm bệnh. Do đặc điểm của hạt cỏ và lửng có lớp vỏ kitin, chậm hút nước hơn lúa. Biện pháp ngâm nước, chỉ đãi hạt lép. Muốn loại bỏ hạt cỏ và lửng, phải ngâm tiếp trong dung dịch nước muối 15%. Cách pha dung dịch muối nồng độ 15% : Cho 150gram muối ăn (NaCl) hòa tan trong 1 lít nước. 1 kg lúa giống, cần 3 lít dung dịch nước muối. Ngâm trong 10 – 15 phút. Sau đó đem lúa giống đãi với nước sạch nhiều lần (cho hết muối) mới đem đi ủ.
Sau mỗi lần xử lý, cần thêm 5% tổng lượng muối đã hòa để làm tiếp (Có thể thử bằng cách thả 1 quả trứng gà mới đẻ vào, nếu quả trứng nổi lập lờ là đạt yêu cầu, nếu trứng nổi hẳn thì tỷ trọng quá cao cần thêm nước, nếu quả trứng chìm trong nước là thiếu muối cần thêm muối).
b. Dùng hóa chất
Ở Việt Nam, khuyến cáo xử lý hạt giống bằng các loại hóa chất sau đây có tác dụng ngăn chận bệnh lúa von và một số bệnh khác lây qua hạt như tiêm lửa, bệnh nấm hạch nhỏ...
Dùng VICARBEN 50HP: Ngâm hạt giống cho vừa nhú mộng, cho vào nước thuốc theo tỷ lệ 0,1%. Ngâm trong 2 giờ, vớt ra tiếp tục ngâm ủ cho đến khi gieo được. Hoặc xử lý khô ở tỷ lệ 0,5 – 1% theo trọng lượng hạt. Sau đó tiến hành ngâm ủ như bình thường.
Carban 50SC , pha 3 ml / 1 lít nước, ngâm cho 1 kg lúa giống trong khoảng 24 giờ.
Ở những ruộng sản xuất giống, đặc biệt trên giống Jasmine, khi lúa đã nhiễm bệnh, có thể khống chế bằng cách:
* Phun Vicarben 50HP. Phun 2 lần, lúc lúa trỗ và lúc vào chắc. Liều lượng 30/00. Nên phun vào chiều mát.
* Xử lý Carban 50SC, liều lượng 1lít/ha. Nên phun vào chiều mát. Carban 50SC không chỉ loại trừ được nấm gây bệnh lúa von mà còn hạn chế nấm gây bệnh lem lép hạt.bệnh của cây.
Xem thêm: THVL | Nhà nông hội nhập: Lúa von
- Bệnh gỉ sắt trên cây sâm ngọc linh: Nguyên nhân, triệu chứng và giải pháp phòng ngừa (Puccinia)
- Bệnh gỉ sắt hại cây cà phê (Hemileia vastatrix Berk et Br)
- Bệnh rỉ sắt trên cây rau má (Puccinia parasitica)
- Bệnh đốm vòng hại hành lá (Alternaria porri)
- Biện pháp phòng trừ bệnh sương mai cho cây khoai môn
- Quản lý bệnh nứt thân xì mủ trên cây sầu riêng