Quản lý sâu hại tổng hợp (IPM) trên cây đậu tương (đậu nành)
Quản lý sâu hại tổng hợp là kết hợp các phương pháp hoặc chiến thuật vào chiến lược phòng trừ thích hợp cho từng vùng. Hiện nay, chương trình phòng trừ sâu bệnh ở đậu tương chủ yếu là vào diệt trừ tạm thời việc bùng nổ của sâu hại mà nó đã đạt được hoặc vượt ngưỡng gây hại kinh tế. Điều này có thể thực hiện hoặc sử dụng thuốc trừ sâu. Phương pháp này yêu cầu xác định mật độ sâu trên đồng ruộng, ở các giai đoạn sinh trưởng khác nhau của cây và đồng thời đánh giá mức hại do sâu đã gây ra. Thông tin này có được qua các phương pháp theo dõi. Dựa trên kết quả theo dõi, người quản lý dùng ngưỡng và sơ đồ quy định để xác định việc phun thuốc hay không. Thuốc trừ sâu phải dùng ở mức độ thấp nhất và chỉ khi mật độ sâu đến mức gây thiệt hại kinh tế. Để có biện pháp phòng trừ sâu thích hợp, thì phương pháp theo dõi, phương pháp dự đoán và kế hoạch rất cần thiết, nó giúp cho việc đưa ra quyết định trong việc phòng trừ sâu hại.
Theo dõi cây ruộng trồng đậu tương (đậu nành):
Điều tra và theo dõi đồng ruộng đậu tương ở những giai đoạn sinh trưởng khác nhau. Để xác định được lịch theo dõi hợp lý, ta cần hiểu đặc điểm phát sinh và gây hại của chúng. Thí dụ nếu sâu hại chính trong vùng là rệp thì chú ý theo dõi từ giai đoạn hình thành quả, vì rệp ít khi xâm nhập vào đồng ruộng trước giai đoạn hình thành quả. Theo dõi để cung cấp một số thông tin sau:
- Mật độ của sâu hại và trạng thái của tác nhân tự nhiên phòng trừ chúng (ký sinh, loài ăn thịt, bệnh, khí hậu, thời tiết).
- Số liệu về trạng thái cây trồng và mức độ gây hại hiện tại. Cần phải đánh giá quần thể sâu hại:
Có nhiều phương pháp để đánh giá mật độ sâu, nhưng không một phương pháp nào cho hiệu quả như nhau đối với tất cả các loại sâu ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng cây. Có nhiều tài liệu nói về các phương pháp lấy mẫu đối với sâu hại đậu tương, nhưng phương pháp thực tế nhất áp dụng trong chương trình IPM là theo dõi trực tiếp, để xác định trực tiếp và mức độ gây hại từ khi cây mọc tới giai đoạn bốn lá (V4) hoặc năm lá (V5) sau đó dùng phương pháp lưới vét để đánh giá chính xác mật độ.
Trong kế hoạch cần có thông tin về thiên địch tự nhiên và đặc biệt khả năng bị bệnh. Công việc này có thể khó khăn bởi vì nó cần xác định thiên địch tự nhiên hoặc ở ngoài đồng ruộng, hoặc ở trong phòng thí nghiệm. Để có kế hoạch phòng trừ cần có những số liệu về cây trồng. Mức hại trên đồng ruộng là chỉ tiêu cuối cùng khó theo dõi nhất. Chẳng hạn khó đánh giá mức độ lá rụng. Phương pháp mang tính thực tiễn nhất là đánh giá bằng mắt. Tuy nhiên, phương pháp này biến động nhiều giữa những người đánh giá. Những người đánh giá phải được huấn luyện kỹ. Để làm được việc này, cây hoặc từng lá chết, với mức độ rụng lá được đo trước một cách cẩn thận và dùng để so sánh bằng mắt với mẫu lấy ngẫu nhiên ngoài đồng ruộng.
Dự báo tình hình sâu hại trên ruộng trồng đậu tương (đậu nành):
Theo dõi là biện pháp quan trọng quản lý sâu ở đậu tương. Tuy nhiên cuối cùng việc chấp thuận chương trình quản lý của người nông dân tuỳ thuộc vào hiệu quả của các biện pháp theo dõi, đánh giá và sự đơn giản của phương pháp. Ở hầu hết các diện tích trồng đậu tương, sâu hại xuất hiện rải rác cả về thời gian, không gian và có nhiều năm không cần dùng thuốc sâu. Nhìn chung, cải tiến khả năng dự báo cung cấp cho người trồng ngay từ đầu vụ những thông tin về khả năng sâu hại, sẽ thúc đẩy người nông dân chấp nhận các phương pháp theo dõi và quản lý sâu bệnh. Dự báo dựa trên mô hình nhưng bắt đầu xây dựng mô hình cần thu thập số liệu về mật độ diễn biến sâu hại theo vùng.
Xác định biện pháp phòng trừ sâu hại trên ruộng trồng đậu tương (đậu nành):
Sau khi theo dõi, người ta có thể đưa ra một số tiêu chuẩn để xác định chiến lược phù hợp cho phòng trừ sâu hại ở điều kiện nào đó. Hầu hết các chương trình quản lý sâu bệnh này sử dụng mức độ tổn hại kinh tế và áp dụng liều lượng và thuốc trừ sâu tối thiểu có ích, qua cái gọi là mô hình quyết định tĩnh, nó thường gồm sơ đồ sử dụng dễ dàng cho nông dân. Tuy nhiên, nếu nông nghiệp hiện đại ngày nay yêu cầu xác định một cách chính xác các thông số cần thiết cho việc đưa ra một quyết định kinh tế đúng. Điều này có thể được qua sử dụng một mô hình cơ động gồm quần thể sâu bệnh và giai đoạn sinh trưởng cây. Mô hình bao gồm tác đụng tổng hợp của thuốc sâu, bệnh và thiên địch tự nhiên. Thông tin càng nhiều, mô hình càng trở nên hiện thực, và sẽ giúp cho việc xây dựng một kế hoạch thực hiện tốt hơn. Phòng trừ sâu hại đậu tương hiện nay chủ yếu là ngăn chặn tạm thời sự bùng nổ của sâu khi chúng đạt tới mức hoặc vượt ngưỡng kinh tế. Để có kết quả, việc phòng trừ cần kết hợp tất cả các thông tin về mật độ sâu.
Thuốc hoá học phòng trị sậu hại đậu tương (đậu nành):
Thuốc hoá học chỉ là phương tiện tạm thời ngăn chặn sự bùng nổ của sâu lá, việc dùng thuốc đúng liều lượng, theo đúng hướng dẫn của chuyên môn thì nó không có hại tới người dùng và môi trường. Hiện nay, thuốc sâu là xương sống của hệ thống phòng trừ tổng hợp và nó vẫn tiếp tục như vậy cho tới khi một phương pháp phòng trừ mới ra đời. Mặc dầu, hầu hết thuốc hoá học được sử dụng hợp lý và an toàn. Song cũng có một vài trường hợp lạm dụng thuốc quá nhiều, ở liều lượng cao gây ảnh hưởng đến môi trường và con người, đôi khi còn tăng thêm mật độ sâu do quen thuốc. Những kết quả nghiên cứu cho thấy rằng ở nồng độ thuốc thấp cũng đủ để phòng trừ sâu hại và cho phép các thiên địch tự nhiên có lợi sinh sống bình thường.
Nghiên cứu thuốc trừ sâu đậu tương phải khuyến khích nghiên cứu về loại mới và phương pháp sử dụng trong hệ thống phòng trừ tổng hợp để bảo vệ môi trường và bảo vệ thiên địch tự nhiên. Hiện nay có rất nhiều loại thuốc trừ sâu hại đậu tương như: Dipterex, Ofatox, Sutin 5EC, Tanggo 800WG, Azodin, Basudin, Dimecron, Match 050EC, để phun phòng trừ (Bộ NN & PTNT, 2002; Trần Văn Hùng, 1992). Thông thường sau khi cây mọc được 5 ngày, nên dùng Dipterex 2‰ cộng với l‰ Padan 95SP (bình bơm 10 lít pha 2g Dipterex +lg Padan) phun kỹ để chống đối đục thân. Khi cây có 7 - 8 lá thật để trừ sâu hại lá phun kép lần 2 thuốc Dipterex 2‰ cộng với 1‰ Padan 95SP. Lần phun này có thể phun thêm các chế phẩm phân bón và chất kích thích qua lá để tăng năng suất hạt. Khi cây tắt hoa phun thuốc trừ sâu đục quả bằng thuốc Ofatox hoặc Regent với nồng độ 2‰.
Bệnh hại sâu và thuốc trừ sâu vi sinh áp dụng cho ruộng trồng đậu tương (đậu nành):
Bệnh hại sâu là một thành phần chính trong thiên địch tự nhiên. Thiên địch tự nhiên gồm loài ăn thịt và loài ký sinh. Loài thiên địch đóng vai trò rất quan trọng, nó luôn giữ sâu hại ở dưới ngưỡng tổn thất kinh tế. Bệnh hại sâu đặc biệt rất hiệu quả trong phòng trừ sâu bộ cánh vảy (Lepidoptera). Nấm ký sinh rất phổ biến trên diện tích trồng đậu tương, trong đó Nomuraea rileyi (Farlow) là loại phổ biến nhất. Nấm này thường ký sinh gây dịch hại đối với sâu non của sâu xanh, sâu đo, sâu xanh hại ngô và sâu róm. Sâu bị chết lúc đầu có màu trắng sau đó chuyển sang xanh với nhiều bào tử. Nấm Entomophthora gammae Weiser ký sinh trên sâu non của sâu đo. Sâu bị chết có hai dạng, một dạng mất màu, nhăn nheo, một dạng màu đen và cứng.
Vi khuẩn Bacillus thuringiensis:
Berliner là một loại thuốc trừ sâu vi sinh (microbial insectiside) có ích, dùng để phòng trừ sâu xanh, sâu đo và sâu róm. Tuy nhiên sau khi phun thuốc từ hai hoặc nhiều ngày sau mới chết, cho nên nông dân ít dùng. Một vài loại virus như virus đa diện (Nucleo polyhedrosis NPVS) có hiệu quả trong phòng trừ các loại sâu bọ cánh vảy: sâu đo, sâu róm, sâu đục quả.
Thiên địch ăn thịt và ký sinh:
Thiên địch tự nhiên có vai trò quan trọng trong việc giữ mật độ sâu ở dưới ngưỡng gây hại kinh tế. Không có chúng ta phải dùng thuốc nhiều lần để kiềm chế sâu ở dưới ngưỡng gây tổn thất kinh tế. Những năm gần đây, nhiều nước đã quan tâm đến sử dụng thiên địch tự nhiên, hạn chế sử dụng thuốc hoá học. Ở nước ta ngay từ những năm 1980 đã nghiên cứu và sử dụng ong mắt đỏ trong phòng trừ sâu hại và gần đây là các loại thuốc trừ sâu vi sinh.
Loài ăn thịt ở đậu tương là loài đa thực, nó ăn nhiều loại sâu khác nhau. Nó thường ăn trứng và sâu non trước khi chúng gây hại. Reed và cộng sự (1984) thấy rằng 25% trứng sâu xanh ngô bị loài ăn thịt ăn sau khi đẻ trên lá đậu tương ở ngoài đồng một ngày (Ngô Thế Dân và cs, 1999). Loài ăn thịt chủ yếu là con trưởng thành của Notoxus monodon (F) và Lebia analis (Dejean) và sâu chưa trưởng thành của một số loài thuộc bộ cánh cứng.
Biện pháp canh tác cây đậu tương (đậu nành):
Nhiều biện pháp canh tác như thời gian gieo trồng, sinh trưởng của cây, khoảng cách mật độ cây...có thể đóng vai trò quan trọng trong phòng trừ sâu hại. Ở Mỹ gieo trồng sớm các giống thuộc nhóm V, có thể tránh được sâu xanh ngô hại đậu tương ở vùng Bắc Carolina. Ngược lại ở Nam Carolina, gieo trồng giống thuộc nhóm V hoặc Vi thường bị sâu xanh ngô hại nặng. Trong khi đó, những giống gieo muộn thì ít khi đùng thuốc. Khoảng cách trồng có tác dụng điều khiển sâu xanh ngô bởi vì sâu trưởng thành thích đẻ trứng ở trong ruộng đậu tương tán thoáng. Như vậy, trồng dày sẽ hạn chế sâu xanh ngô. Mật độ sâu xanh tăng nếu trồng xen ngô với đậu tương, bởi vì thế hệ đầu sâu ăn ngô, sau đó chuyển sang đậu. Sâu đo đậu tương thường không gây hại nghiêm trọng đối với đậu tương ở vùng không có bông, nếu có bông bướm sâu đo do hút mật ở hoa bông và đẻ trứng tới mức tối đa. Sâu nở ra sẽ sang hại đậu tương trồng bên cạnh. Giảm cày bừa tăng vụ có thể ảnh hưởng tới bọ cánh cứng Mêhicô, châu chấu chân đỏ và các loại sâu khác. Dùng bẫy bằng giống dễ mẫm cảm có tác dụng thu hút sâu bệnh và hạn chế ảnh hưởng với giống chính.
Dùng giống đậu tương (đậu nành) kháng sâu bệnh:
Dùng giống kháng sâu bệnh là biện pháp phòng trừ hiệu quả nhất trong quản lý sâu hại đậu tương. Nhiều nhà nghiên cứu đã xác định mức đề kháng nhiều loại sâu hại đậu tương. Lông đậu tương có tác dụng chống bọ nhảy (Empoasca fabae). Lông gây khó khăn cho đẻ trứng và ăn hại của sâu. Lông cũng có ảnh hưởng tới sự phát triển của loài chân đốt trên đậu tương.
Chương trình chọn giống chống sâu gần đây được đẩy mạnh hơn, các nguồn gen chống sâu xanh ngô, cánh cứng, sâu đo đậu tương, sâu đo bắp cải hại đậu (Trichoplusiani Hubner), rệp và ruồi trắng khoai lang (Bemisia tabaci) đã được xác định để phục vụ cho chương trình chọn tạo giống.
- Hướng dẫn xử lý tuyến trùng trên cây ổi bằng phương pháp sinh học
- Kỹ thuật chăm sóc cây sầu riêng ra hoa đậu trái đạt hiệu quả cao
- Biện pháp khắc phục, hồi sinh cây cà phê bị ngộ độc phân bón
- Hướng dẫn ủ rác thải nhà bếp làm phân bón đơn giản tại nhà
- Giải pháp kích thích trái to và nâng cao năng suất trước khi bao trái xoài
- Hướng dẫn chăm sóc, bón phân và sử dụng hormone sinh trưởng cho cây hồ tiêu trong mùa khô